Tình hình kinh tế - xã hội tháng Ba và quý I năm 2025
Các hoạt động kinh tế - xã hội quý I năm 2025 diễn ra trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu... đã làm gia tăng rủi ro đối với an ninh hàng hải, chuỗi cung ứng hàng hóa, thị trường tài chính, tiền tệ; khả năng xảy ra chiến tranh thương mại trên thế giới có thể sẽ làm đứt gãy các chuỗi cung ứng, thu hẹp thị trường xuất khẩu. Ở trong nước và các địa phương vừa phải tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy, vừa phải tập trung thực hiện để đạt kết quả cao nhất các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của năm 2025.
Trên địa bàn tỉnh, các hoạt động kinh tế - xã hội tiếp đà phục hồi nhưng cũng gặp không ít khó khăn do tác động của tình hình kinh tế thế giới và trong nước. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành, các địa phương tăng cường công tác dự báo, triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp duy trì phát triển sản xuất. Các ngành, lĩnh vực kinh tế tiếp tục chuyển biến tích cực và đạt nhiều kết quả quan trọng. Trong đó, sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định, ít phát sinh dịch bệnh; công nghiệp tiếp tục duy trì đà tăng trưởng và các ngành dịch vụ phát triển mạnh. Công tác an sinh xã hội được đảm bảo. Dưới đây là một số kết quả đã đạt được:
1. Các chỉ tiêu tổng hợp[1]
1.1. Tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm xã hội (GRDP) trên địa bàn toàn tỉnh quý I năm 2025 (theo giá so sánh 2010) ước tính đạt 13.754,1 tỷ đồng, tăng 9,06 % so với quý I năm 2024, xếp thứ 14/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và xếp thứ 06/11 tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Hồng. Trong đó, giá trị tăng thêm khu vực I (nông, lâm nghiệp và thủy sản) đạt 957,4 tỷ đồng, tăng 3,69% đóng góp 0,27 điểm phần trăm vào tốc độ tăng GRDP của toàn nền kinh tế; khu vực II (công nghiệp - xây dựng) đạt 4.496,8 tỷ đồng, tăng 6,95% đóng góp 2,32 điểm phần trăm (riêng công nghiệp ước đạt 3.534,2 tỷ đồng, tăng 5,83% đóng góp 1,54 điểm phần trăm); khu vực III (dịch vụ) đạt 6.043,7 tỷ đồng, tăng 12,79% đóng góp 5,43 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 2.256,2 tỷ đồng, tăng 6,15% đóng góp 1,04 điểm phần trăm.
1.2. Cơ cấu kinh tế
Với định hướng phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các ngành dịch vụ. Tổng sản phẩm xã hội (GRDP) trên địa bàn toàn tỉnh quý I năm nay (theo giá hiện hành) ước tính đạt 24.382,2 tỷ đồng. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 1.747,7 tỷ đồng, chiếm 7,2%; khu vực công nghiệp - xây dựng đạt 7.635,5 tỷ đồng chiếm 31,3% (riêng công nghiệp ước đạt 6.078,1 tỷ đồng, chiếm 24,9%); khu vực dịch vụ đạt 11.177,1 tỷ đồng, chiếm 45,8%; thuế sản phẩm (trừ trợ cấp sản phẩm) 3.821,9 tỷ đồng, chiếm 15,7%.
2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Quý I năm 2025, các địa phương trong tỉnh đã tập trung thu hoạch nhanh gọn cây vụ Đông, nhất là với diện tích canh tác trên đất lúa, tạo quỹ đất để triển khai sản xuất vụ Xuân theo đúng tiến độ; công tác phòng chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm đạt hiệu quả; công tác trồng rừng, chăm sóc, bảo vệ và phòng chống cháy rừng tiếp tục được quan tâm; sản xuất thủy sản phát triển tốt, không có dịch bệnh xảy ra.
2.1. Nông nghiệp
2.1.1. Trồng trọt
Sản xuất vụ Đông: Vụ Đông năm nay, các cấp, các ngành chỉ đạo bà con nông dân tiếp tục chuyển đổi cơ cấu cây trồng, thâm canh tăng vụ, đảm bảo kế hoạch diện tích gieo trồng và nâng cao thu nhập cho người dân.
Diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Đông năm 2024 - 2025 trên địa bàn toàn tỉnh đạt 7.504 ha, giảm 2,0% (- 155 ha) so với cùng vụ năm trước và đạt 100,1% Kế hoạch diện tích gieo trồng cây vụ Đông của tỉnh. Kết quả sản xuất một số cây trồng chủ yếu trong vụ như sau:
Cây ngô: Diện tích gieo trồng đạt 1.398 ha, giảm 9,5% (- 147 ha); năng suất đạt 41,7 tạ/ha, tăng 1,2% (+ 0,5 tạ/ha); sản lượng đạt 5.833 tấn, giảm 8,3% (- 530 tấn).
Cây khoai lang: Diện tích gieo trồng đạt 310 ha, tăng 8,8% (+ 25 ha); năng suất đạt 108,2 tạ/ha, tăng 0,4% (+ 0,4 tạ/ha); sản lượng đạt 3.352 tấn, tăng 9,1% (+ 279 tấn).
Cây đậu tương: Diện tích gieo trồng đạt 96 ha, tăng 24,7% (+ 19 ha); năng suất đạt 15,8 tạ/ha, tăng 3,9% (+ 0,6 tạ/ha); sản lượng đạt 152 tấn, tăng 29,9% (+ 35 tấn).
Cây lạc: Diện tích gieo trồng đạt 193 ha, giảm 0,5% (- 1 ha); năng suất đạt 26,5 tạ/ha, tăng 1,5% (+ 0,4 tạ/ha); sản lượng đạt 512 tấn, tăng 1,4% (+ 7 tấn).
Rau các loại: Diện tích gieo trồng đạt 4,5 nghìn ha, giảm 1,9% (- 86 ha); năng suất đạt 220,2 tạ/ha, tăng 0,4% (+ 0,8 tạ/ha); sản lượng đạt 99,0 nghìn tấn, giảm 1,5% (- 1,5 nghìn tấn) so với cùng vụ năm trước.
Sản xuất vụ Xuân: Đầu vụ, thời tiết tương đối thuận lợi, nền nhiệt năm nay cao hơn năm trước do những đợt rét đậm, rét hại xuất hiện ít hơn, do vậy tiến độ gieo trồng đối với các loại cây trồng vụ Xuân nói chung và cây lúa nói riêng được đẩy nhanh, bảo đảm trong khung thời vụ theo kế hoạch.
Hiện nay, thời tiết ấm áp, thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng và phát triển; sâu bệnh xuất hiện rải rác, mức độ hại nhẹ. Bà con nông dân tiếp tục triển khai trồng màu vụ Xuân, đến ngày 26/3/2025, diện tích gieo trồng cây hằng năm vụ Xuân ước đạt gần 45,7 nghìn ha, trong đó lúa đạt 39,3 nghìn ha; ngô đạt 1,4 nghìn ha; khoai lang đạt 0,2 nghìn ha; lạc đạt 1,7 nghìn ha; rau, đậu và các loại cây màu khác đạt 3,1 nghìn ha. Đến nay, 100% diện tích lúa đã được chăm sóc đợt 1, trong đó 32,8 nghìn ha lúa được chăm sóc đợt 2.
Cây lâu năm: Sản lượng cây ăn quả thu hoạch trong quý I năm 2025 ước tính đạt 24,3 nghìn tấn, tăng 1,5% (+ 0,4 nghìn tấn) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng sản lượng do diện tích các loại cây lâu năm tương đối ổn định, thích ứng với điều kiện của thời tiết, phù hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng; sâu bệnh ít xuất hiện nên năng suất các loại cây ăn quả ước tính cao hơn năm trước. Sản lượng một số cây ăn quả chủ yếu trong quý I tăng so với cùng kỳ năm trước như: Dứa ước đạt 17,7 nghìn tấn, tăng 1,1%; chuối ước đạt 5,8 nghìn tấn, tăng 2,5%;....
2.1.2. Chăn nuôi
Trong tháng, hoạt động chăn nuôi diễn ra thuận lợi, giá cả ổn định đảm bảo nguồn cung thực phẩm dồi dào đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Tại thời điểm báo cáo, đàn trâu ước đạt 12,8 nghìn con, tăng 0,2% so với cùng thời điểm năm trước; đàn bò ước đạt 35,2 nghìn con, tăng 1,7%; đàn lợn ước đạt 225,3 nghìn con, tăng 2,5%; đàn gia cầm ước đạt trên 6,7 triệu con, tăng 4,9%; trong đó đàn gà ước đạt 4,6 triệu con, tăng 3,9%.
Trong quý I năm 2025, dịch bệnh trên đàn vật nuôi được kiểm soát tốt, đến nay dịch tả lợn Châu Phi đã được khống chế hoàn toàn. Lũy kế từ đầu năm đến nay số lợn đã tiêu hủy do dịch tả lợn Châu Phi là 104 con, tổng trọng lượng tiêu hủy là 4,8 nghìn tấn.
Sản lượng thịt hơi xuất chuồng trong quý I ước đạt trên 18,9 nghìn tấn, tăng 6,0% (+ 1,1 nghìn tấn) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng ước đạt 0,3 nghìn tấn, tăng 0,3%; thịt bò hơi ước đạt 0,9 nghìn tấn, tăng 3,1%; thịt lợn hơi ước đạt 12,9 nghìn tấn, tăng 6,5%; thịt gia cầm hơi ước đạt 4,3 nghìn tấn, tăng 5,6%. Sản lượng trứng gia cầm ước đạt gần 45,1 triệu quả, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước.
2.2. Lâm nghiệp
Thực hiện Chỉ thị số 9892/CT-BNN-LN ngày 26/12/2024 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về tổ chức phong trào “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ” nhân dịp xuân Ất Tỵ và tăng cường công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng năm 2025; Chỉ thị số 20-CT/TU ngày 10/10/2024 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Ninh Bình về tăng cường công tác trồng, chăm sóc và bảo vệ cây xanh trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, UBND tỉnh Ninh Bình ban hành Kế hoạch số 05/KH-UBND ngày 06/01/2025 tổ chức Lễ phát động “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ” xuân Ất Tỵ năm 2025. Sáng ngày 31/01/2025 (tức ngày 03 tháng Giêng năm Ất Tỵ), lễ phát động tết trồng cây trên địa bàn tỉnh được thực hiện tại 07 điểm; số cây trồng trong ngày đầu Lễ phát động “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ” xuân Ất Tỵ là 94,1 nghìn cây trong đó tại các điểm phát động là trên 0,8 nghìn cây, số lượng cây trồng trên địa bàn toàn tỉnh trong ngày phát động trồng cây đầu xuân là gần 93,3 nghìn cây, bao gồm các loại cây như: Xoài, Vàng anh, Ban, Sấu, Bằng lăng, Giổi xanh, Keo, Kim giao, Xà cừ, Long não, Sao Đen, Xà Cừ, cây Lát...
Trong tháng, diện tích trồng rừng mới tập trung ước đạt 28,2 ha, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 2,4 nghìn m3, tăng 0,1%; số cây lâm nghiệp trồng phân tán là 92,0 nghìn cây, tăng 2,8%. Tính chung lại, trong quý I năm 2025, diện tích rừng mới tập trung ước đạt 38,5 ha, tăng 1,0% so với quý I năm 2024; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 6,7 nghìn m3, tăng 1,5%; số cây lâm nghiệp trồng phân tán là 291,0 nghìn cây, tăng 3,1%.
Công tác phòng, chống cháy rừng, quản lý bảo vệ rừng vẫn được kiểm soát, chỉ đạo chặt chẽ. Tuy vậy, trong quý I/2025 trên địa bàn tỉnh Ninh Bình vẫn xảy ra 01 vụ cháy rừng tại núi Lổ, thôn Trường An, xã Trường Yên, thành phố Hoa Lư với diện tích rừng bị cháy là 0,48 ha.
2.3. Thuỷ sản
Trong quý I/2025, các cơ sở nuôi thủy sản tập trung thu hoạch diện tích nuôi cá ruộng để thực hiện công tác gieo cấy lúa vụ Đông Xuân, đồng thời thu hoạch sản phẩm trên những ao nuôi đạt kích cỡ thương phẩm để cung cấp cho thị trường. Tại vùng nước lợ huyện Kim Sơn, các hộ kinh doanh giống chuẩn bị cơ sở vật chất, nhập tôm giống về ươm phục vụ việc nuôi thả. Các trại sản xuất giống ngao, hàu tiếp tục cho sinh sản để cung cấp kịp thời nhu cầu của thị trường.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng Ba ước đạt 4,6 nghìn tấn, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước, chia ra sản lượng cá ước đạt 2,4 nghìn tấn, tăng 5,2%; tôm ước đạt 0,2 nghìn tấn, tăng 8,8%; thủy sản khác ước đạt 2,0 nghìn tấn, tăng 4,9%; sản lượng thủy sản khai thác biển trong tháng ước đạt 167,1 tấn (+ 5,1%). Tính chung lại, sản lượng thủy sản toàn tỉnh quý I ước đạt 16,5 nghìn tấn, tăng 5,1%, chia ra sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 14,6 nghìn, tăng 4,4%, sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 1,9 nghìn tấn, tăng 10,2%.
3. Sản xuất công nghiệp
Tình hình sản xuất công nghiệp quý I trên địa bàn tiếp tục duy trì đà tăng trưởng nhưng vẫn còn không ít khó khăn về thị trường tiêu thụ, tình trạng thiếu hụt nguồn lao động, nhất là lao động tay nghề cao.
Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) toàn tỉnh tháng Ba ước tính tăng 9,96% so với tháng trước. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 6,45%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,27%; sản xuất và phân phối điện tăng 8,71%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 21,97%.
So với cùng tháng năm trước (tháng 3/2024), chỉ số IIP toàn tỉnh tăng 11,77%. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 11,54%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14,79%; sản xuất và phân phối điện giảm 50,63%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 12,83%.
Tính chung quý I năm 2025, chỉ số IIP toàn tỉnh tăng 10,42%. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 9,26%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 12,80%; sản xuất và phân phối điện giảm 44,91%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,01%.
Giá trị sản xuất: Tính theo giá so sánh 2010, giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh tháng Ba ước đạt 8.442,4 tỷ đồng, tăng 10,0% so với tháng 3/2024. Trong đó: Khai khoáng ước đạt 80,9 tỷ đồng, tăng 12,7%; công nghiệp chế biến, chế tạo 8.303,0 tỷ đồng, tăng 10,8%; sản xuất và phân phối điện 44,6 tỷ đồng, giảm 51,4%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 13,9 tỷ đồng, giảm 6,9%. Tính chung lại, giá trị sản xuất công nghiệp 3 tháng đầu năm 2025 toàn tỉnh ước đạt 24.257,7 tỷ đồng, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Khai khoáng ước đạt 265,1 tỷ đồng, tăng 12,6%; công nghiệp chế biến, chế tạo 23.800,9 tỷ đồng, tăng 9,2%; sản xuất và phân phối điện 140,5 tỷ đồng, giảm 45,0%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 51,2 tỷ đồng, tăng 0,3%.
Sản phẩm công nghiệp chủ yếu: Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu ước thực hiện tháng Ba năm 2025 tăng khá so với cùng kỳ như: Đá các loại 0,4 nghìn m3, tăng 9,8%; ngô ngọt đóng hộp 0,3 nghìn tấn, tăng 14,5%; dứa đóng hộp 0,6 nghìn tấn, tăng 16,2%; nước khoáng không có ga 0,3 triệu lít, tăng 11,5%; hàng thêu 99,3 nghìn m2, gấp 2,9 lần; quần áo các loại 5,5 triệu cái, tăng 14,7%; phân Ure 48,5 nghìn tấn, tăng 54,0%; phân lân nung chảy 25,2 nghìn tấn, tăng 80,0%; xi măng (kể cả clanke) 0,6 triệu tấn, tăng 22,0%; thanh nhôm, que nhôm, nhôm ở dạng hình 4,9 nghìn tấn, tăng 25,6%; cấu kiện nhà lắp sẵn bằng kim loại 4,8 tấn, gấp 3,0 lần; modul camera 19,8 triệu cái, tăng 28,6%; xe ô tô chở hàng hóa 0,8 nghìn chiếc, tăng 21,1%; cần gạt nước ô tô 0,5 triệu cái, tăng 15,3%; điện thương phẩm 0,2 tỷ Kwh, tăng 9,5%;... Bên cạnh đó cũng có một số sản phẩm có mức sản xuất giảm sút như: Giày dép các loại 5,2 triệu đôi, giảm 6,5%; phân NPK 10,5 nghìn tấn, giảm 10,3%; thép cán các loại 21,9 nghìn tấn, giảm 28,4%; linh kiện điện tử 8,5 triệu cái, giảm 15,8%; ghế ngồi dùng cho xe có động cơ 18,3 nghìn chiếc, giảm 3,2%; búp bê 14,0 triệu con, giảm 17,9%; đồ chơi hình con vật 1,5 triệu con, giảm 27,2%; điện sản xuất 19,1 triệu Kwh, giảm 76,8%; nước máy thương phẩm 2,0 triệu m3, giảm 14,7%;...
Tính chung quý I năm 2025, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có mức tăng cao so với cùng kỳ là: Ngô ngọt đóng hộp 0,9 nghìn tấn, tăng 17,4%; dứa đóng hộp 2,5 nghìn tấn, tăng 39,9%; nước dứa tươi 1,4 triệu lít, tăng 13,6%; quần áo các loại 16,2 triệu cái, tăng 12,4%; phân Ure 0,1 triệu tấn, tăng 14,5%; phân NPK 29,6 nghìn tấn, tăng 23,8%; phân lân nung chảy 68,4 nghìn tấn, tăng 30,8%; xi măng và clanke 1,5 triệu tấn, tăng 16,0%; thanh nhôm, que nhôm, nhôm ở dạng hình 11,3 nghìn tấn, tăng 34,5%; cấu kiện nhà lắp sẵn bằng kim loại 25,8 tấn, tăng 19,4%; modul camera 54,2 triệu tấn, tăng 11,5%; xe ô tô 5 chỗ ngồi trở lên 11,7 nghìn cái, tăng 15,4%; xe ô tô chở hàng 2,6 nghìn chiếc, tăng 53,2%; búp bê 44,3 triệu con, tăng 13,2%; điện thương phẩm 0,6 tỷ Kwh, tăng 10,1%;… Tuy nhiên, một số sản phẩm lại có mức sản xuất giảm như: Kính nổi 96,0 nghìn tấn, giảm 2,5%; thép cán các loại 68,4 nghìn tấn, giảm 8,2%; linh kiện điện tử 24,2 triệu cái, giảm 8,7%; tai nghe điện thoại di động 10,5 nghìn cái, giảm 93,3%; kính máy ảnh 0,2 triệu cái, giảm 74,1%; cần gạt nước ô tô 1,5 triệu cái, giảm 2,3%; đồ chơi hình con vật 4,5 triệu con, giảm 28,6%; điện sản xuất 57,6 triệu Kwh, giảm 72,5%;..
Chỉ số tiêu thụ ngành cô