Hôm nay, thứ 4 16/10/2024
Tìm kiếm:  

THÔNG TIN THỐNG KÊ THÁNG


 

Các hoạt động kinh tế - xã hội quý I năm 2024 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; xung đột quân sự giữa Nga và U-crai-na kéo dài, căng thẳng trên Biển Đỏ, dải Gaza leo thang; tăng trưởng kinh tế, thương mại, đầu tư toàn cầu tiếp tục xu hướng suy giảm; thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu... đã làm gia tăng rủi ro đối với an ninh hàng hải, chuỗi cung ứng hàng hóa, thị trường tài chính, tiền tệ, an ninh năng lượng, an ninh lương thực toàn cầu. Trong nước, giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào tăng cao làm tăng chi phí sản xuất, vận tải, tạo áp lực lên kiểm soát lạm phát.

Trên địa bàn tỉnh, các hoạt động kinh tế - xã hội tiếp đà phục hồi nhưng cũng gặp không ít khó khăn do tác động của tình hình kinh tế thế giới và trong nước. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành, các địa phương tăng cường công tác dự báo, triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp duy trì phát triển sản xuất. Tiếp tục chỉ đạo tập trung cao trong việc nắm bắt tình hình, thường xuyên rà soát, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc hỗ trợ hiệu quả cho các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh. Dưới đây là một số kết quả đã đạt được:

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Quý I năm 2024, các địa phương trong tỉnh đã tập trung thu hoạch nhanh gọn cây vụ Đông, nhất là với diện tích canh tác trên đất lúa, tạo quỹ đất để triển khai sản xuất vụ Xuân theo đúng tiến độ; công tác phòng chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm đạt hiệu quả; công tác trồng rừng, chăm sóc, bảo vệ và phòng chống cháy rừng tiếp tục được quan tâm; sản xuất thủy sản phát triển tốt, không có dịch bệnh xảy ra.

1.1. Nông nghiệp

1.1.1. Trồng trọt

Sản xuất vụ Đông: Vụ Đông năm nay, tỉnh Ninh Bình tiếp tục triển khai thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng hàng hóa, đẩy mạnh sản xuất rau màu ở những vùng được quy hoạch; khuyến khích đầu tư, hướng dẫn và hỗ trợ người nông dân ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đưa các giống cây trồng cho năng suất, chất lượng tốt, có khả năng chống chịu sâu bệnh vào sản xuất.

Diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Đông năm 2023 - 2024 trên địa bàn toàn tỉnh đạt 7,7 nghìn ha, giảm 2,3% (- 0,2 nghìn ha) so với cùng vụ năm trước và đạt 98,2% Kế hoạch diện tích gieo trồng cây vụ Đông của tỉnh. Kết quả sản xuất một số cây trồng chủ yếu trong vụ như sau:

Cây ngô: Diện tích gieo trồng đạt 1,5 nghìn ha, tăng 8,1% (+ 0,12 nghìn ha); năng suất đạt 41,2 tạ/ha, tăng 4,3% (+ 1,7 tạ/ha); sản lượng đạt 6,4 nghìn tấn, tăng 12,8% (+ 0,7 nghìn tấn).

Cây khoai lang: Diện tích gieo trồng đạt gần 0,3 nghìn ha, giảm 10,7%      (- 0,03 nghìn ha); năng suất đạt 107,8 tạ/ha, tăng 4,4% (+ 4,5 tạ/ha); sản lượng đạt 3,1 nghìn tấn, giảm 6,9% (- 0,2 nghìn tấn).

Cây đậu tương: Diện tích gieo trồng đạt 77 ha, tăng 30,5% (+ 18,0 ha); năng suất đạt 15,2 tạ/ha, tăng 6,3% (+ 0,9 tạ/ha); sản lượng đạt 117,0 tấn, tăng 39,3% (+ 33,0 tấn).

Cây lạc: Diện tích gieo trồng đạt gần 0,2 nghìn ha, tăng 12,1% (+ 0,02 nghìn ha); năng suất đạt 26,1 tạ/ha, tăng 2,0% (+ 0,5 tạ/ha); sản lượng đạt 0,5 nghìn tấn, tăng 14,3% (+ 0,06 nghìn tấn).

Rau các loại: Diện tích gieo trồng đạt gần 4,6 nghìn ha, giảm 6,3% (- 0,3 nghìn ha); năng suất đạt 219,4 tạ/ha, giảm 0,7% (- 1,6 tạ/ha); sản lượng đạt 100,5 nghìn tấn, giảm 7,0% (- 7,6 nghìn tấn) so với cùng vụ năm trước.

Sản xuất vụ Xuân: Các địa phương trong tỉnh đã đẩy nhanh tiến độ làm đất, lấy nước để phục vụ công tác gieo cấy lúa vụ Đông Xuân. Đến ngày 25/02/2024 toàn tỉnh đã cơ bản kết thúc gieo cấy, hoàn thành lịch thời vụ đúng kế hoạch. Thời tiết đầu vụ có rét đậm kéo dài làm các trà lúa sinh trưởng, phát triển chậm lại.

Hiện nay, thời tiết ấm áp, thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng và phát triển; sâu bệnh xuất hiện rải rác, mức độ hại nhẹ. Bà con nông dân tiếp tục triển khai trồng màu vụ Xuân, đến ngày 20/3/2024, diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Xuân ước đạt gần 44,7 nghìn ha, trong đó lúa đạt gần 39,2 nghìn ha; ngô đạt 1,4 nghìn ha; khoai lang đạt trên 0,2 nghìn ha; lạc đạt gần 1,8 nghìn ha; rau, đậu và các loại cây màu khác đạt gần 2,1 nghìn ha. Diện tích lúa được chăm sóc đợt 2 đến nay đạt 4,1 nghìn ha, bằng 10,5% diện tích lúa đã cấy.

Cây lâu năm: Sản lượng cây ăn quả được thu hoạch trong quý I năm 2024 ước tính đạt 23,2 nghìn tấn, tăng 0,5% (+ 0,1 nghìn tấn) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng sản lượng một mặt do diện tích các loại cây lâu năm tương đối ổn định, thích ứng với điều kiện của thời tiết, phù hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng; sâu bệnh ít xuất hiện nên năng suất các loại cây ăn quả ước tính cao hơn năm trước. Sản lượng một số cây ăn quả chủ yếu trong quý I tăng so với cùng kỳ năm trước như: Dứa ước đạt 17,5 nghìn tấn, tăng 0,3%; chuối ước đạt 5,7 nghìn tấn, tăng 1,2%;....

1.1.2. Chăn nuôi

Trong tháng, hoạt động chăn nuôi diễn ra thuận lợi, giá cả ổn định đảm bảo nguồn cung thực phẩm dồi dào đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Tại thời điểm báo cáo, đàn trâu ước đạt 12,8 nghìn con, tăng 0,2% so với cùng thời điểm năm trước; đàn bò ước đạt 35,5 nghìn con, tăng 0,5%; đàn lợn ước đạt 287,2 nghìn con, tăng 4,5%; đàn gia cầm ước đạt gần 6.275,2 nghìn con, tăng 5,3%; trong đó đàn gà ước đạt 4.373,4 nghìn con, tăng 6,0%.

Trong quý I năm 2024, dịch bệnh trên đàn vật nuôi được kiểm soát tương đối tốt, đến nay dịch tả lợn Châu Phi đã cơ bản được khống chế (hiện tại chỉ còn 01 xã Yên Thắng, huyện Yên Mô có dịch bệnh chưa qua 21 ngày); bệnh cúm gia cầm xuất hiện rải rác nhưng đã được xử lý kịp thời, không để dịch bệnh lây lan trên diện rộng, tạo điều kiện thuận lợi để các hộ chăn nuôi yên tâm đầu tư phát triển đàn vật nuôi. Lũy kế từ đầu năm đến nay số lợn đã tiêu hủy do dịch tả lợn Châu Phi là 53 con, tổng trọng lượng tiêu hủy là 2.467 kg; số gia cầm phải tiêu hủy do dịch cúm là 2.949 con.

Sản lượng thịt hơi xuất chuồng trong quý I ước đạt trên 17,8 nghìn tấn, tăng 5,6% (+ 0,9 nghìn tấn) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng ước đạt 0,3 nghìn tấn, tăng 0,3%; thịt bò hơi ước đạt 0,8 nghìn tấn, tăng 1,9%; thịt lợn hơi ước đạt 12,0 nghìn tấn, tăng 5,9%; thịt gia cầm hơi ước đạt 4,0 nghìn tấn, tăng 6,1%. Sản lượng trứng gia cầm ước đạt gần 43,3 triệu quả, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước.

1.2. Lâm nghiệp

Sản xuất lâm nghiệp trong quý I năm 2024 tập trung chủ yếu vào công tác trồng rừng, trồng cây phân tán và chăm sóc, bảo vệ rừng.

Thực hiện “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ” nhân dịp xuân Giáp Thìn, sáng ngày 15/02/2024 tức ngày mùng Sáu tháng Giêng năm Giáp Thìn, Lễ phát động Tết trồng cây trên địa bàn tỉnh được thực hiện tại 08 điểm; trong đó địa điểm phát động Tết trồng cây của tỉnh tổ chức tại Nút giao cao tốc Mai Sơn - Quốc lộ 45 với tuyến đường Đông Tây, xã Quang Sơn, thành phố Tam Điệp. Số cây trồng trong ngày đầu Lễ phát động “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ” Xuân Giáp Thìn là trên 95,5 nghìn cây, trong đó tại các điểm phát động là 672 cây, trên địa bàn huyện, thành phố là gần 94,9 nghìn cây, bao gồm các loại cây như: Sao đen, Xà cừ, Bằng lăng, Xoài, Sấu, Keo, Lim xẹt, Phi lao,…

Trong tháng, diện tích trồng rừng mới tập trung ước đạt 28,1 ha, tăng 1,1% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 2,4 nghìn m3, tăng 1,9%; sản lượng củi khai thác ước đạt 1,7 nghìn ste, giảm 1,5%; số cây trồng phân tán là 89,5 nghìn cây tương đương cùng kỳ năm trước. Tính chung lại, trong quý I năm 2024, diện tích rừng mới tập trung ước đạt 38,1 ha, tăng 3,5% so với quý I năm 2023; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 6,2 nghìn m3, tăng 1,6%; sản lượng củi khai thác ước đạt 5,6 nghìn ste, tương đương với cùng kỳ năm trước; số cây trồng phân tán là 282,4 nghìn cây, tăng 2,9%.

Công tác phòng, chống cháy rừng, quản lý bảo vệ rừng vẫn được kiểm soát, chỉ đạo chặt chẽ. Từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh xảy ra 1 vụ chặt phá rừng có diện tích bị thiệt hại gần 0,03 ha.

1.3. Thuỷ sản

Trong quý I/2024, các hộ nuôi thủy sản tập trung thu hoạch diện tích nuôi cá ruộng để thực hiện công tác gieo cấy lúa vụ Đông Xuân, đồng thời thu hoạch sản phẩm trên những ao nuôi đạt kích cỡ thương phẩm và tiếp tục chăm sóc các diện tích đang thả nuôi.

Tại vùng nước lợ huyện Kim Sơn, các hộ kinh doanh giống chuẩn bị cơ sở vật chất, nhập tôm giống về ương phục vụ việc nuôi thả. Các trại sản xuất giống ngao, hàu tiếp tục cho sinh sản để cung cấp kịp thời nhu cầu của thị trường.

Sản lượng thủy sản trong tháng Ba ước đạt 5,6 nghìn tấn, tăng 6,1% so với cùng kỳ năm trước, chia ra sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 5,0 nghìn tấn, tăng 6,5%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 0,6 nghìn tấn, tăng 2,8%. Tính chung lại, sản lượng thủy sản quý I năm 2024 ước đạt 16,8 nghìn, tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước. Chia theo loại thủy sản: Sản lượng cá đạt 9,2 nghìn tấn, tăng 5,8%, tôm đạt 0,5 nghìn tấn, tăng 18,8%; thủy sản khác đạt 7,1 nghìn tấn, tăng 4,8%; sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 15,1 nghìn tấn, tăng 5,8%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 1,7 nghìn tấn, tăng 5,0%.

          2. Sản xuất công nghiệp

Tình hình sản xuất công nghiệp trong quý I của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tương đối ổn định và đạt mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) toàn tỉnh tháng Ba ước tính tăng 8,85% so với tháng trước. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 25,24%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,50%; sản xuất và phân phối điện tăng 17,63%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,38%.

So với cùng tháng năm trước (tháng 3/2023), chỉ số IIP toàn tỉnh tăng 0,69%. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 3,53%; công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 1,84%; sản xuất và phân phối điện gấp 2,6 lần; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,71%.

Tính chung quý I năm 2024, chỉ số IIP toàn tỉnh tăng 3,32% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 20,87%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,32%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 95,94%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,61%.

Giá trị sản xuất: Tính theo giá so sánh 2010, giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh tháng Ba ước đạt 7.573,4 tỷ đồng, tăng 1,3% so với tháng 3/2023. Trong đó: khai khoáng ước đạt 69,1 tỷ đồng, tăng 9,5%; công nghiệp chế biến, chế tạo 7.403,7 tỷ đồng, tăng 0,5%; sản xuất và phân phối điện 83,0 tỷ đồng, gấp 2,5 lần; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 17,6 tỷ đồng, tăng 4,5%.

Tính chung lại, giá trị sản xuất công nghiệp quý I năm 2024 toàn tỉnh ước đạt 22.226,7 tỷ đồng, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: khai khoáng ước đạt 233,3 tỷ đồng, tăng 22,2%; công nghiệp chế biến, chế tạo 21.694,9 tỷ đồng, tăng 3,3%; sản xuất và phân phối điện 246,3 tỷ đồng, tăng 95,8%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 52,2 tỷ đồng, tăng 8,6%.

Sản phẩm công nghiệp chủ yếu: Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu ước thực hiện tháng Ba năm 2024 tăng khá so với cùng kỳ như: Nước dứa tươi 0,4 nghìn lít, tăng 63,6%; thức ăn gia súc 1,5 nghìn tấn, tăng 7,5%; nước khoáng không có ga 0,4 triệu lít, tăng 8,0%; phân Ure 47,8 nghìn tấn, gấp gần 10 lần; phân lân nung chảy 14,1 nghìn tấn, tăng 43,9%; kính nổi 33,9 nghìn tấn, tăng 5,0%; thép cán các loại 27,2 nghìn tấn, tăng 18,8%; linh kiện điện tử 15,0 triệu cái, tăng 26,1%; kính máy ảnh 0,2 triệu cái, tăng 26,4%; ắc quy điện bằng axit-chì dùng để khởi động cơ pittong 72,5 nghìn Kwh, tăng 15,1%; đồ chơi hình con vật 2,2 triệu con, tăng 48,5%; điện sản xuất 73,5 triệu Kwh, gấp 9,3 lần; nước máy thương phẩm 2,5 triệu m3, tăng 6,4%;... Bên cạnh đó cũng có một số sản phẩm có mức sản xuất giảm sút như: Ngô ngọt đóng hộp 0,2 nghìn tấn, giảm 29,1%; dứa đóng hộp 0,6 nghìn tấn, giảm 43,4%; hàng thêu 125,3 nghìn m2, giảm 52,2%; giày dép các loại 4,8 triệu đôi, giảm 5,0%; phân NPK 5,0 nghìn tấn, giảm 27,5%; xi măng (kể cả clanke) 0,5 triệu tấn, giảm 14,3%; cấu kiện nhà lắp sẵn bằng kim loại 2,4 tấn, giảm 96,8%; modul camera 17,6 triệu cái, giảm 19,6%; tai nghe điện thoại di động 80,0 nghìn cái, giảm 68,2%; xe ô tô 5 chỗ ngồi trở lên 3,0 nghìn chiếc, giảm 27,2%; xe ô tô chở hàng hóa 0,4 nghìn chiếc, giảm 48,8%; ghế ngồi dùng cho xe có động cơ 15,2 nghìn chiếc, giảm 27,3%; cần gạt nước ô tô 0,4 triệu cái, giảm 24,6%;...

Tính chung quý I năm 2024, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có mức tăng cao so với cùng kỳ là: Đá các loại 0,9 triệu m3, tăng 20,1%; ngô ngọt đóng hộp 0,7 nghìn tấn, tăng 20,7%; nước dứa tươi 1,2 triệu lít, tăng 79,7%; nước khoáng không có ga 0,9 triệu lít, tăng 8,7%; hàng thêu 0,4 triệu m2, tăng 28,6%; quần áo các loại 14,2 triệu cái, tăng 11,6%; phân Ure 142,0 nghìn tấn, gấp 2,3 lần; phân lân nung chảy 52,4 nghìn tấn, tăng 59,8%; kính nổi 99,0 nghìn tấn, tăng 6,5%; thép cán các loại 71,1 nghìn tấn, tăng 18,9%; linh kiện điện tử 31,4 triệu cái, tăng 16,3%; kính máy ảnh 0,4 triệu cái, tăng 45,2%; ắc quy điện bằng axit-chì dùng để khởi động cơ pittong 0,2 triệu Kwh, tăng 75,3%; đồ chơi hình con vật 6,5 triệu con, gấp 2,1 lần; điện sản xuất 0,2 tỷ Kwh, gấp 3,3 lần; điện thương phẩm 0,6 tỷ Kwh, tăng 9,3%; nước máy thương phẩm 7,4 triệu m3, tăng 5,6%;… Tuy nhiên, một số sản phẩm lại có mức sản xuất giảm như: Dứa đóng hộp 1,8 nghìn tấn, giảm 5,2%; thức ăn gia súc 4,5 nghìn tấn, giảm 35,7%; giày dép các loại 13,5 triệu đôi, giảm 2,8%; phân NPK 17,2 nghìn tấn, giảm 16,9%; xi măng (kể cả clanke) 1,3 triệu tấn, giảm 15,5%; cấu kiện nhà lắp sẵn bằng kim loại 22,5 tấn, giảm 76,2%; modul camera 50,8 triệu cái, giảm 12,0%; tai nghe điện thoại di động 0,2 triệu cái, giảm 83,3%; xe ô tô 5 chỗ ngồi trở lên 9,2 nghìn chiếc, giảm 26,4%; xe ô tô chở hàng hóa 1,4 nghìn chiếc, giảm 39,2%; ghế ngồi dùng cho xe có động cơ 47,0 nghìn chiếc, giảm 22,6%; cần gạt nước ô tô 1,5 triệu cái, giảm 9,6%;..

Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng Ba giảm 9,75% so với tháng 3/2023, tính chung quý I/2024 tăng 1,38% so với cùng kỳ. So với quý I/2023, các ngành công nghiệp có chỉ số tiêu thụ tăng như: Sản xuất đồ uống tăng 5,03%; dệt tăng 9,67%; sản xuất trang phục tăng 13,03%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 5,32%; in và sao chép bản ghi các loại tăng 85,07%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 46,07%; sản xuất kim loại tăng 14,77%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 15,17%; sản xuất thiết bị điện tăng 67,43%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế gấp 2,7 lần; công nghiệp chế biến và chế tạo khác tăng 61,25%;...

Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng Ba tăng 24,84% so với tháng trước và tăng 15,51% so với cùng tháng năm trước. Trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho cao so với cùng kỳ năm 2023 như: Sản xuất đồ uống tăng 4,56%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 12,75%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 88,37%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 51,24%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 76,07%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 31,54%; sản xuất thiết bị điện tăng 6,11%; công nghiệp chế biến và chế tạo khác tăng 63,16%;...

Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo

Kết quả điều tra về xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý I/2024 cho thấy: Có 22,37% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý I năm nay tốt hơn quý trước; 42,11% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn và 35,52% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định. Dự kiến quý II so với quý I năm nay, có 59,21% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 19,74% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn và 21,05% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định.

Trong các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý I năm nay, có 55,26% số doanh nghiệp cho rằng khả năng cạnh tranh cao của hàng hóa trong nước là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; 53,95% số doanh nghiệp cho rằng do nhu cầu thị trường trong nước thấp; 46,05% số doanh nghiệp cho rằng nhu cầu thị trường quốc tế thấp; 31,58% số doanh nghiệp cho rằng gặp khó khăn về tài chính; 27,63% số doanh nghiệp cho rằng tính cạnh tranh của hàng nhập khẩu cao; 18,42% số doanh nghiệp cho rằng không tuyển được lao động theo yêu cầu…

3. Vốn đầu tư thực hiện

Tổng số vốn đầu tư thực hiện trong tháng Ba năm 2024 toàn tỉnh ước đạt 2.648,8 tỷ đồng, tăng 13,3% so với cùng tháng năm trước. Trong đó: Vốn Nhà nước đạt 584,0 tỷ đồng, tăng 32,8%; vốn ngoài Nhà nước đạt 1.860,2 tỷ đồng, tăng 3,0%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 204,6 tỷ đồng, gấp 2,2 lần.

Tính chung lại, tổng vốn đầu tư thực hiện trong quý I năm 2024 toàn tỉnh ước đạt 7.535,1 tỷ đồng, tăng 9,3% so với quý I năm 2023. Trong đó: Vốn Nhà nước đạt 1.398,3 tỷ đồng, tăng 7,2%; vốn ngoài Nhà nước đạt 5.515,8 tỷ đồng, tăng 3,8%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 621,0 tỷ đồng, gấp 2,3 lần.

Một số dự án, công trình có khối lượng vốn đầu tư thực hiện lớn trong quý I năm 2024 là:

Khu vực đầu tư công: Thực hiện Công điện số 01/CĐ-TTg ngày 01/01/2024 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục phát huy tinh thần trách nhiệm cao nhất, đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng các dự án, công trình hạ tầng giao thông. Ngày 23/01/2024, UBND tỉnh Ninh Bình đã ban hành văn bản số 74/UBND-VP4 triển khai Công điện của Thủ tướng Chính phủ, theo đó UBND tỉnh giao các chủ đầu tư, Ban Quản lý dự án, nhà thầu thi công, nhà thầu tư vấn phát huy hơn nữa tinh thần “vượt nắng, thắng mưa”, “không thua đại dịch”, “ăn tranh thủ, ngủ khẩn trương”, thi công 3 ca, 4 kíp làm việc xuyên lễ, xuyên Tết nhất là trong dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn và mùa khô năm 2024, trách nhiệm hơn nữa để đẩy nhanh tiến độ thi công, nâng cao chất lượng các công trình, dự án, phấn đấu hoàn thành vượt tiến độ đề ra. Kết quả thực hiện ở một số công trình trong quý I năm 2024 là: Dự án xây dựng cơ sở hạ tầng khu du lịch sinh thái Tràng An và các dự án thành phần ước đạt trên 99,7 tỷ đồng; Xây dựng tuyến đường Đông - Tây, tỉnh Ninh Bình (giai đoạn I) ước đạt 59,4 tỷ đồng; Cải thiện cơ sở hạ tầng đô thị nhằm giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu cho 04 tỉnh ven biển Bắc Trung Bộ - Tiểu dự án cải thiện cơ sở hạ tầng đô thị Phát Diệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình ước đạt 40,5 tỷ đồng; Đầu tư trang thiết bị âm thanh, ánh sáng chuyên dùng cho Nhà văn hóa trung tâm tỉnh Ninh Bình ước đạt 30 tỷ đồng; Xây dựng tuyến đường từ Quốc lộ 12B đến trung tâm thị trấn Bình Minh, huyện Kim Sơn ước đạt 27 tỷ đồng;…

Khu vực doanh nghiệp Nhà nước: Dự án mua sắm máy móc thiết bị của Công ty Cổ phần nhiệt điện Ninh Bình ước đạt gần 15,2 tỷ đồng; các dự án xây dựng, sửa chữa công trình điện, mua sắm máy móc, thiết bị của Công ty TNHH MTV Điện lực Ninh Bình ước đạt trên 26 tỷ đồng.

Khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước: Dự án xây dựng khu Trung tâm liên hợp du lịch và thể thao sân Golf hồ Yên Thắng của Công ty Cổ phần đầu tư PV- Inconess ước đạt trên 28,2 tỷ đồng; dự án xây dựng Trụ sở văn phòng của Công ty TNHH Xuân Thiện Ninh Bình ước đạt trên 20,3 tỷ đồng; Dự án xây dựng nhà máy xử lý nước sạch CCN Văn Phong của cty TNHH Thiên Phú ước đạt 5,4 tỷ đồng;…

Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Dự án mua tài sản, lắp đặt máy móc thiết bị phục vụ sản xuất camera module của Công ty TNHH MCNEX Vina ước đạt 194 tỷ đồng; Dự án mua sắm máy móc thiết bị phụ vụ cho sản xuất hàng may mặc của công ty TNHH Great Global International ước đạt 102 tỷ đồng; Dự án xây dựng nhà xưởng phục vụ sản xuất giày của Công ty TNHH Giầy Athena Việt Nam ước đạt trên 55,3  tỷ đồng; Dự án xây dựng nhà xưởng phục vụ sản xuất giày của Công ty TNHH Ever great Internation ước đạt 29 tỷ đồng;… 

4. Thương mại, dịch vụ và giá cả

Các hoạt động thương mại, dịch vụ trên địa bàn tỉnh trong quý I tiếp tục diễn ra sôi động, duy trì độ tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước, đặc biệt là các ngành lưu trú, ăn uống và dịch vụ du lịch lữ hành.

4.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức bán lẻ hàng hóa trong tháng Ba ước đạt trên 6.025,7 tỷ đồng, tăng 16,6% so với tháng 3/2023. Tính chung lại cả quý I năm 2024, doanh thu bán lẻ hàng hoá toàn tỉnh đạt trên 20.596,7 tỷ đồng, tăng 33,0% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó các nhóm hàng hoá có tốc độ tăng cao là: Lương thực, thực phẩm ước đạt 7.894,9 tỷ đồng, tăng 41,4%; hàng may mặc 1.075,2 tỷ đồng, tăng 44,8%; vật phẩm văn hoá, giáo dục 114,3 tỷ đồng, tăng 48,9%; gỗ và vật liệu xây dựng 4.504,8 tỷ đồng, 34,8%; xăng, dầu các loại 1.985,6 tỷ đồng, tăng 43,9%; nhiên liệu khác (trừ xăng, dầu) 173,8 tỷ đồng, tăng 41,0%; doanh thu sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 934,7 tỷ đồng, tăng 39,5%; hàng hoá khác 288,1 tỷ đồng, tăng 47,3%... Duy nhất nhóm ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) có doanh thu bán lẻ giảm do nhu cầu tiêu dùng giảm, doanh thu của nhóm hàng này ước đạt 1.349,6 tỷ đồng, giảm 7,3% so với thực hiện trong quý I năm 2023.

Ninh Bình tiếp tục khẳng định là điểm đến hàng đầu của khách du lịch trong và ngoài nước. Lượng du khách đến với Ninh Bình tăng cao góp phần làm tăng doanh thu của các ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành. Trong tháng Ba, doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống toàn tỉnh ước đạt 761,1 tỷ đồng, tăng 29,9% so với tháng 3/2023; doanh thu dịch vụ du lịch lữ hành ước đạt 11,7 tỷ đồng, gấp 13,2 lần; doanh thu một số ngành dịch vụ khác ước đạt 502,7 tỷ đồng, tăng 10,0%. Tính chung quý I năm nay, doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống thực hiện trên toàn tỉnh ước đạt 2.268,0 tỷ đồng, tăng 32,1% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ du lịch lữ hành 28,8 tỷ đồng, gấp 13,5 lần; doanh thu một số ngành dịch vụ khác 1.507,7 tỷ đồng, tăng 9,4%.

4.2. Chỉ số giá

Chỉ số giá tiêu dùng: Sau hai tháng đầu năm tăng liên tiếp, chỉ số giá tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ (CPI) trên địa bàn tỉnh trong tháng Ba đã giảm 0,33% so với tháng trước, tăng 1,3% so với tháng Mười Hai năm trước và tăng 4,28% so với tháng 3/2023. Tính chung lại, CPI bình quân quý I năm 2024 tăng 4,03% so với cùng kỳ năm trước.

So với tháng trước, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có duy nhất nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống có chỉ số giá giảm, là nguyên nhân chính tác động làm giảm CPI tháng này. Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 1,09%, trong đó: nhóm lương thực giảm 0,18% do giá gạo xuất khẩu bắt đầu lao dốc từ sau Tết đến nay đã kéo theo giá gạo tại thị trường nội địa giảm, giá gạo trên địa bàn tỉnh đã giảm 0,88%; nhóm thực phẩm giảm 1,63% khi nhu cầu tiêu dùng các loại thịt và sản phẩm từ thịt trong tháng giảm so với tháng trước là tháng có Tết Nguyên đán, cụ thể: giá thịt lợn giảm 4,83%, giá thịt bò giảm 1,08%, giá nội tạng động vật giảm 5,64% dẫn đến giá nhóm thịt gia súc giảm 4,17%; giá nhóm thịt gia cầm giảm 3,29% (giá thịt gà giảm 2,57%; giá thịt gia cầm khác giảm 4,87%); giá nhóm thịt chế biến giảm 3,61%; riêng nhóm ăn uống ngoài gia đình lại tăng nhẹ 0,01%. Bảy nhóm có chỉ số giá tăng lần lượt gồm: nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,47%; nhóm giao thông tăng 0,18%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,17%; hai nhóm may mặc, mũ nón và giày dép và nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng cùng tăng 0,05%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình và nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng nhẹ 0,02% và 0,01%. Ba nhóm còn lại giữ chỉ số giá ổn định là: nhóm đồ uống và thuốc lá, nhóm bưu chính viễn thông và nhóm giáo dục.

CPI bình quân quý I năm nay tăng 4,03% so với quý I năm 2023. Có đến 10/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, cụ thể: nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng cao nhất 8,73%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 6,55%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 4,98% (lương thực tăng cao 20,05%; thực phẩm tăng 4,54%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,45%); nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 4,64%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 4,63%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 3,53%; nhóm giáo dục tăng 2,83%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,43%; nhóm giao thông tăng 1,57% và nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,16%. Duy nhất nhóm bưu chính viễn thông có chỉ số giá không thay đổi.

Các yếu tố chính tác động làm tăng CPI quý I năm 2024 gồm:

- Chỉ số giá gạo tăng cao 33,19% khi giá gạo trong nước tăng theo giá gạo xuất khẩu cùng với nhu cầu sử dụng gạo tăng cao trong dịp Tết Nguyên đán.

- Chỉ số giá các mặt hàng thực phẩm tăng khi nhu cầu tiêu dùng các mặt hàng này tăng cao vào dịp Tết (giá thịt lợn tăng 6,36%; giá thịt gà tăng 14,96%; giá thịt gia cầm khác tăng 17,86%; giá thịt chế biến tăng 6,82%; giá nhóm hoa quả tươi, chế biến tăng 10,29%).

- Giá dịch vụ y tế tăng 10,58% khi các cơ sở khám chữa bệnh thực hiện Thông tư 22/2023/TT-BYT ngày 17/11/2023 về Quy định thống nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc và hướng dẫn áp dụng giá, thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh trong một số trường hợp.

- Giá điện sinh hoạt bình quân tăng 7,43% do nhu cầu sử dụng điện tăng cùng với việc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) tăng giá bán lẻ điện bình quân.

- Giá xi măng, sắt, thép tăng do giá nhiên liệu đầu vào tăng tác động làm giá nhóm dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 14,17%.

- Giá quần áo may sẵn tăng 5,49% do việc mua sắm quần áo dịp Tết của người dân tăng.

Bên cạnh đó, vẫn có những yếu tố làm giảm CPI như:

- Giá ga trong nước được điều chỉnh giảm theo giá ga thế giới, giá ga trên địa bàn tỉnh giảm 1,84% so với cùng kỳ.

- Giá một số loại rau tươi, chế biển giảm: cà chua giảm 15,65%; rau muống giảm 12,95%; rau dạng quả, củ giảm 7,44%; rau chế biến các loại giảm 7,43%.

Chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ: Chỉ số giá vàng tháng Ba tăng 8,85% so với tháng trước, tăng 11,88% so với tháng 12/2023 và tăng 24,82% so với cùng tháng năm 2023. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng này tăng 1,09% so với tháng 02/2024, tăng 1,94% so với tháng 12/2023 và tăng 4,49% so với tháng 3/2023. Bình quân quý I năm 2024, chỉ số giá vàng tăng 18,88%, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 3,89%.

4.3. Xuất, nhập khẩu

Hoạt động xuất nhập khẩu trong quý I năm nay có dấu hiệu phục hồi tích cực, trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới vẫn rất khó đoán định, nhu cầu hàng hoá tại nhiều thị trường lớn sụt giảm nhưng kết quả xuất khẩu đạt được trong quý I năm nay vẫn đạt khá do những nỗ lực của các doanh nghiệp trong việc nâng cao hiệu quả khai thác các thị trường truyền thống và những thị trường mới, thị trường tiềm năng. Hoạt động nhập khẩu trên địa bàn tỉnh chủ yếu là nhập khẩu nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất cũng có mức tăng trưởng trong quý I, dự báo tiềm năng giá trị xuất khẩu sẽ tiếp tục tăng trưởng trong thời gian tới.

Xuất khẩu: Tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa toàn tỉnh trong tháng Ba ước thực hiện gần 259,8 triệu USD, giảm 5,4% so với tháng Ba năm 2023.

Trong 3 tháng đầu năm 2024, tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa toàn tỉnh ước đạt trên 774,2 triệu USD,  tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn là: Camera và linh kiện ước đạt gần 207,9 triệu USD; giày dép các loại 191,9 triệu USD; xi măng và clanke 134,3 triệu USD; quần áo các loại 81,0 triệu USD; linh kiện điện tử 31,4 triệu USD, linh kiện phụ tùng ô tô các loại 27,9 triệu USD...

Quý I năm nay, một số mặt hàng có mức xuất khẩu tăng khá so với cùng kỳ như: Hàng thêu ren 40,0 nghìn chiếc, tăng 27,5%; kính quang học 1,0 triệu chiếc, gấp 3,6 lần; linh kiện điện tử 31,4 triệu USD, tăng 66,3%; phôi nhôm 4,7 nghìn tấn, tăng 30,2%; đồ chơi trẻ em 3,9 triệu chiếc, tăng 69,7%; linh kiện phụ tùng ô tô các loại 27,9 triệu USD, tăng 76,7%; túi nhựa 0,4 nghìn tấn, gấp 4,2 lần... Tuy nhiên một số mặt hàng xuất khẩu lại giảm sút so với cùng kỳ như: Dứa, dưa chuột đóng hộp 1,5 nghìn tấn, giảm 16,5%; nước dứa cô đặc 110 tấn, giảm 67,4%; camera và linh kiện 48,8 triệu sản phẩm, giảm 22,7%; phân ure 14,3 nghìn tấn, giảm 56,3%; thảm cói 21,0 nghìn m2, giảm 42,8%; sản phẩm cói khác 203,6 nghìn sản phẩm, giảm 48,8%.

Nhập khẩu: Tổng giá trị nhập khẩu hàng hóa trong tháng Ba ước thực hiện trên 250,3 triệu USD, tăng 15,7% so với cùng tháng năm 2023.

Tính chung lại, quý I năm nay tổng giá trị nhập khẩu hàng hóa ước đạt trên 736,8 triệu USD, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước. Trị giá các nhóm mặt hàng nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn là: Linh kiện điện tử gần 285,0 triệu USD; linh kiện phụ tùng ô tô các loại 193,2 triệu USD; phụ liệu sản xuất giày, dép 129,0 triệu USD; vải may mặc các loại 28,5 triệu USD; máy móc thiết bị 7,0 triệu USD.

4.4. Vận tải hành khách và hàng hóa

          Vận tải hành khách: Ước thực hiện trong tháng Ba đạt trên 4,5 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 38,7% so với tháng 3/2023 và luân chuyển 211,4 triệu lượt khách.km, tăng 35,8%. Tính chung quý I năm nay, khối lượng hành khách vận chuyển thực hiện toàn tỉnh ước đạt trên 14,0 triệu lượt khách, tăng 26,4% và luân chuyển gần 656,8 triệu lượt khách.km, tăng 25,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Chủ yếu là vận tải đường bộ ước đạt 11,3 triệu lượt khách, tăng 31,2% và 646,2 triệu lượt khách.km, tăng 26,0%; vận tải đường thủy nội địa 2,7 triệu lượt khách, tăng 9,7% và 10,6 triệu lượt khách.km, tăng 8,0%.

Vận tải hàng hóa: Trong tháng Ba, khối lượng hàng hóa vận chuyển toàn tỉnh ước thực hiện gần 14,0 triệu tấn, tăng 30,1% so với tháng 3/2023 và luân chuyển trên 1.792,7 triệu tấn.km, tăng 26,0%. Tính chung cả quý I, khối lượng hàng hoá vận chuyển toàn tỉnh đạt trên 45,9 triệu tấn, tăng 32,1% và luân chuyển gần 6.105,3 triệu tấn.km, tăng 30,5% so với quý I năm 2023. Trong đó: Vận tải đường bộ ước đạt 16,2 triệu tấn, tăng 28,0% và  650,1 triệu tấn.km, tăng 18,8%; vận tải đường thủy nội địa 26,6 triệu tấn, tăng 33,3% và 3.768,3 triệu tấn.km, tăng 27,3%; vận tải biển 3,1 triệu tấn, tăng 44,5% và 1.686,9 triệu tấn.km, tăng 44,2%.

Doanh thu vận tải: Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải toàn tỉnh thực hiện trong tháng ước đạt trên 1.627,2 tỷ đồng, tăng 26,9% so với cùng tháng năm trước. Tính chung quý I, doanh hoạt động vận tải ước đạt gần 5.386,3 tỷ đồng, tăng 28,4% so với quý I/2023. Trong đó phân theo loại hình vận tải: Vận tải hành khách ước thực hiện 655,7 tỷ đồng, tăng 27,0%; vận tải hàng hóa 4.180,4 tỷ đồng, tăng 28,3%; hoạt động dịch vụ hỗ trợ vận tải 513,8 tỷ đồng, tăng 31,9%; bưu chính chuyển phát 36,4 tỷ đồng, tăng 20,5%.

4.5. Hoạt động du lịch

Tiếp đà tăng trưởng của năm 2023, quý I năm nay, hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh tiếp tục khởi sắc. Với việc định hướng phát triển du lịch một cách bền vững, thời gian qua các cấp, ngành, địa phương trong tỉnh đã luôn chú trọng việc tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước trong hoạt động du lịch, khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ du lịch; đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ, luôn đảm bảo an ninh trật tự, vệ sinh môi trường, văn hóa, văn minh tại các khu, điểm, du lịch; từng bước đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, đổi mới các tuyến du lịch tạo nên diện mạo mới đáp ứng được nhu cầu của du khách trong và ngoài nước, qua đó góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế cũng như việc bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa của tỉnh.

Ước tính số lượt khách đến các điểm tham quan, du lịch trên địa bàn tỉnh trong tháng Ba ước đạt 1,3 triệu lượt khách, tăng 48,3% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: Khách trong nước 1,2 triệu lượt, tăng 44,1%; khách quốc tế 0,1 triệu lượt, gấp 2,2 lần. Tổng số lượt khách đến các cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh ước đạt 206,0 nghìn lượt khách, tăng 68,2%; số ngày khách lưu trú ước đạt 227,8 nghìn ngày khách, tăng 33,8%. Doanh thu du lịch trong tháng ước đạt 1.291,3 tỷ đồng, tăng 75,7% so với cùng tháng năm trước.

Tính chung quý I năm nay, số lượt khách đến các điểm thăm quan, du lịch trên địa bàn tỉnh ước đạt gần 3,9 triệu lượt khách, tăng 21,2% so với quý I năm 2023, chia ra: Khách trong nước 3,6 triệu lượt khách, tăng 15,8%; khách quốc tế 0,3 triệu lượt, gấp 2,4 lần. Tổng số lượt khách đến các cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh ước đạt 619,4 nghìn lượt khách, tăng 60,6%; số ngày khách lưu trú ước đạt 686,3 nghìn ngày khách, tăng 47,4%. Doanh thu du lịch quý I ước đạt gần 3.660,1 tỷ đồng, tăng 46,0% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu khách sạn 231,3 tỷ đồng, tăng 37,1%; doanh thu nhà hàng 1.729,7 tỷ đồng, tăng 27,6%.

5. Một số vấn đề xã hội

5.1. Đời sống dân cư

Trong quý I năm nay, đời sống dân cư trên địa bàn tỉnh cơ bản ổn định. Trong dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn,             để đảm bảo mọi nhà, mọi người đều được vui tết, đón xuân, các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương, các tổ chức cá nhân và cộng đồng dân cư đã tổ chức nhiều hoạt động thiết thực và hiệu quả như: Tổ chức thăm hỏi và tặng quà cho các đối tượng là gia đình chính sách, người có công với cách mạng; người cao tuổi; các hộ nghèo, cận nghèo; trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; gia đình có quân nhân đang làm nhiệm vụ ở biên giới, hải đảo, nơi khó khăn; các đối tượng bảo trợ xã hội tại các trung tâm; giáo viên mầm non ngoài biên chế... tổng kinh phí 59.258,3 triệu đồng, tặng cho 147.720 lượt đối tượng. Chia ra: Quà từ ngân sách Trung ương: 8.192,1 triệu đồng, tặng cho 26.792 lượt đối tượng; ngân sách tỉnh: 10.042,2 triệu đồng, tặng cho 28.983 lượt đối tượng; ngân sách huyện, xã: 14.809,2 triệu đồng, tặng cho 42.474 lượt đối tượng; nguồn xã hội hóa: 26.214,8 triệu đồng, tặng cho 49.471 lượt đối tượng.

Công tác an sinh xã hội, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa cũng luôn được quan tâm thực hiện, trong quý I năm nay đã hỗ trợ đóng và cấp phát miễn phí thẻ bảo hiểm y tế cho 583.844 đối tượng; giải quyết cho 268 lượt đối tượng là hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ mới vươn lên thoát nghèo vay vốn để phát triển sản xuất với tổng kinh phí 19.710 triệu đồng; cho 1.560 lượt người vay vốn, giải quyết việc làm với tổng kinh phí 114.820 triệu đồng.

5.2. Hoạt động giáo dục và đào tạo

Trong quý, ngành Giáo dục và Đào tạo tích cực triển khai thực hiện nhiệm vụ công tác giáo dục và đào tạo với tinh thần chủ động, linh hoạt, các nhiệm vụ trọng tâm được triển khai đúng lịch trình, kế hoạch, đảm bảo chất lượng, hiệu quả. Tham gia và tổ chức các kỳ thi, cuộc thi, hội thi an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế và đạt được nhiều kết quả, cụ thể:

Tổ chức thành công các kỳ thi, cuộc thi cấp tỉnh như: Kỳ thi chọn học sinh giỏi lớp 9 Trung học cơ sở cấp tỉnh; kỳ thi chọn học sinh giỏi, học viên giỏi lớp 12 THPT cấp tỉnh; cuộc thi Khoa học kỹ thuật giành cho học sinh trung học cấp tỉnh; Hội thao Giáo dục quốc phòng và an ninh cho học sinh THPT tỉnh Ninh Bình lần thứ VI; khảo sát đánh giá chất lượng về văn hóa học sinh lớp 9, lớp 11; tổ chức vòng 3 cuộc thi Câu lạc bộ Toán tuổi thơ cấp tỉnh, cuộc thi Tin học Trung học cơ sở cấp tỉnh....

Kết quả kỳ thi chọn HSG quốc gia THPT năm học 2023-2024: Có 71/82 học sinh đoạt giải, đạt tỷ lệ 86,6%, xếp thứ 6 toàn quốc, cao hơn 28,93% so với tỷ lệ đoạt giải của toàn quốc, đây là kết quả cao nhất từ trước tới nay, kể cả về chất lượng và tỷ lệ đoạt giải, có 2 học sinh môn Toán học và Tin học được lựa chọn tham gia đội dự tuyển Olympic Toán học, Tin học Quốc tế.

5.3. Hoạt động Y tế [1]

Trong quý I, ngành Y tế đã chủ động giám sát dịch bệnh tại các bệnh viện và cộng đồng; chuẩn bị đầy đủ cơ số thuốc, trang thiết bị, máy móc phục vụ công tác phòng, chống dịch bệnh; tăng cường giám sát các trường hợp mắc bệnh truyền nhiễm tại cộng đồng, phát hiện sớm các trường hợp bệnh truyền nhiễm, triển khai kế hoạch phòng, chống dịch bệnh mùa Đông xuân.

Trong quý I năm nay đã xảy ra 1 vụ ngộ độc thực phẩm làm 10 người phải nhập viện điều trị và 27 ca ngộ độc thực phẩm lẻ tẻ, không có tử vong do ngộ độc thực phẩm; 61 ca sốt xuất huyết; 723 ca mắc tiêu chảy; 108 ca mắc thủy đậu; 3.752 ca mắc cúm; 02 ca sốt rét… Trong tháng 3/2024, ghi nhận 03 trường hợp dương tính với vi khuẩn ho gà tại xã Xích Thổ, huyện Nho Quan sau hơn 3 năm Ninh Bình không ghi nhận ca mắc. Các trường hợp bệnh đều là trẻ dưới 5 tuổi, chưa xác định được nguồn lây bệnh và chưa đến tuổi tiêm phòng hoặc chưa tiêm đủ các mũi vắc xin có thành phần ho gà theo khuyến cáo.

Công tác phòng chống HIV/AIDS: Trong quý, phát hiện mới 06 người nhiễm HIV mới, có 07 trường hợp tử vong do AIDS. Lũy tích số người nhiễm HIV tính đến nay là 2.835 người, trong đó số người còn sống là 1.466 người.

5.4. Văn hoá thông tin

Hoạt động Văn hóa - Thông tin diễn ra sôi nổi với nhiều nội dung và hình thức phong phú, thiết thực chào mừng các ngày lễ lớn của đất nước cũng như của địa phương như: Kỷ niệm 94 năm ngày thành lập Đảng 03/02, chào mừng Xuân mới Giáp Thìn 2024, Ngày Quốc tế phụ nữ 8/3, khai hội Chùa Bái Đính...

Tổ chức nhiều chương trình văn nghệ, thể dục thể thao để phục vụ nhu cầu văn hóa, văn nghệ và vui chơi giải trí, đón xuân năm mới của Nhân dân như: Chương trình nghệ thuật đặc biệt đêm Giao thừa chào Xuân Giáp Thìn vào đêm 30 Tết Nguyên đán; tổ chức Triển lãm Mỹ thuật “Mừng Đảng quang vinh, mừng Xuân Giáp Thìn 2024” tại Thư viện tỉnh; trưng bày chuyên đề “Không gian chợ Tết xưa” tại Bảo tàng tỉnh. Ngoài ra các địa phương trên địa bàn tỉnh đều chủ động tổ chức các hoạt động văn hóa, trò chơi dân gian như: Cờ tướng, kéo co... và thi đấu các môn thể thao truyền thống như bóng chuyền, quần vợt, bóng bàn..., thu hút đông đảo người dân tham gia và hưởng ứng, tạo không khí phấn khởi để nhân dân vui Tết, đón Xuân.

Trong quý I, Nhà hát chèo đã thực hiện 45 buổi biểu diễn nghệ thuật và chương trình ca múa nhạc phục vụ nhiệm vụ chính trị và phục vụ nhân dân. Trung tâm Phát hành phim và Chiếu bóng tổ chức 133 buổi chiếu phim lưu động phục vụ nhân dân; Bảo tàng tỉnh đã hướng dẫn và đón tiếp 9.083 khách thăm quan; Thư viện tỉnh luân chuyển 80,6 nghìn lượt sách, báo, tạp chí phục vụ trên 34,4 nghìn lượt người đọc.

5.5. Thể dục thể thao

Trong quý, tiếp tục duy trì đào tạo, huấn luyện nâng cao thành tích cho vận động viên các tuyến, tổ chức các hoạt động thể thao quần chúng, đồng thời cử các đoàn vận động viên đi thi đấu các giải thể thao trong nước. Cụ thể:

- Tổ chức các giải thể thao quần chúng phục vụ Nhân dân vui xuân, đón Tết như giải Vật dân tộc tỉnh Ninh Bình năm 2024; giải Bóng chuyền đầu Xuân 2024...;

- Tổ chức giải Bóng chuyền cúp Hoa Lư - Bình Điền lần thứ XVIII năm 2024; Tổ chức các trận thi đấu trong khuôn khổ Giải Bóng đá hạng Nhất quốc gia trên SVĐ Ninh Bình.

- Thành lập đoàn vận động viên tham gia thi đấu Giải vô địch Việt dã leo núi “Chinh phục đỉnh cao Bà Rá” lần thứ 29 năm 2024, kết quả xếp thứ 06 trong tốp 10 cá nhân; Đoàn vận động viên Cử tạ đi tham dự Giải vô địch Cử tạ quốc gia tại thành phố Hồ Chí Minh, kết quả đạt 01 huy chương Bạc.

5.6. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội

Trong quý I, lực lượng Công an tỉnh chủ động nắm, kiểm soát tốt tình hình, chỉ đạo giải quyết những vấn đề liên quan đến an ninh trật tự, không để xảy ra đột xuất, bất ngờ; huy động tối đa lực lượng, phương tiện, sử dụng đồng bộ các biện pháp phòng ngừa, kết hợp với tấn công, trấn áp mạnh các loại tội phạm theo chuyên đề, tuyến, địa bàn, lĩnh vực không để tội phạm hoạt động lộng hành, gây bức xúc trong nhân dân.

Tính từ 15/02/2024-14/3/2024, trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 11 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm chết 07 người và 05 người bị thương; xảy ra 48 vụ phạm pháp hình sự với 103 đối tượng; phát hiện 15 vụ buôn bán, vận chuyển, tàng trữ ma tuý với 15 đối tượng. Không xảy ra vụ cháy, nổ.

Tính chung lại từ 15/12/2023 đến 14/3/2024, trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 52 vụ tai nạn giao thông đường bộ, 02 vụ tai nạn giao thông đường sắt làm chết 33 người và 34 người bị thương; xảy ra 118 vụ phạm pháp hình sự với 256 đối tượng; phát hiện 118 vụ buôn bán, vận chuyển, tàng trữ ma tuý với 128 đối tượng. Xảy ra 01 vụ cháy, không có thương vong về người, về tài sản gây thiệt hại không đáng kể.

 



[1] Theo số liệu trong Báo cáo kết quả hoạt động y tế Quý I năm 2024 của Sở Y tế





CÁC BÀI KHÁC


334079

11
549
334079