Hôm nay, thứ 2 03/02/2025
Tìm kiếm:  

THÔNG TIN THỐNG KÊ THÁNG


 Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Bình tháng Mười hai và năm 2024

 

Năm 2024, tình hình thế giới tiếp tục biến động phức tạp, nhanh và khó lường với nhiều rủi ro, bất ổn tác động đến hòa bình, ổn định trên thế giới làm suy giảm hệ thống đầu tư, sản xuất và tiêu dùng. Tuy nhiên, kinh tế thế giới đang dần ổn định khi thương mại hàng hóa toàn cầu được cải thiện trở lại, áp lực lạm phát giảm dần, điều kiện tài chính đang tiếp tục được nới lỏng, nguồn cung lao động gia tăng. Trong nước, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm, kinh tế phục hồi rõ nét. Tuy nhiên, nước ta tiếp tục đối diện với nhiều khó khăn bởi tác động bên ngoài cũng như những hạn chế nội tại kéo dài; thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp nhất là cơn bão số 3 gây thiệt hại nặng nề ở nhiều địa phương, ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế - xã hội và đời sống của nhân dân.

Trong bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, Ủy ban nhân dân tỉnh đã điều hành quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm các nhiệm vụ, giải pháp đề ra trên các lĩnh vực. Các cấp, các ngành của tỉnh tập trung tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp, tăng cường kết nối thị trường; tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công. Cùng với đó, các doanh nghiệp cũng đã chủ động đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tìm kiếm các đơn hàng mới để phát triển sản xuất, kinh doanh. Tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh năm 2024 đạt được kết quả toàn diện trên mọi lĩnh vực, hoàn thành và hoàn thành vượt mức 15/15 chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu. Công tác an sinh xã hội được đảm bảo, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện. Dưới đây là một số kết quả đạt được:

1. Các chỉ tiêu tổng hợp[1]

   1.1. Tăng trưởng kinh tế

Kinh tế tiếp tục phục hồi, duy trì mức tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm xã hội (GRDP) trên địa bàn toàn tỉnh năm 2024 (theo giá so sánh 2010) ước tính đạt 56.808,9 tỷ đồng, tăng 8,56 % so với năm 2023. Trong đó: giá trị tăng thêm khu vực I (nông, lâm nghiệp và thủy sản) ước đạt 4.808,8 tỷ đồng, tăng 2,41%, đóng góp 0,22 điểm phần trăm; khu vực II (công nghiệp - xây dựng) ước đạt 20.429,3 tỷ đồng, tăng 10,72%, đóng góp 3,78 điểm phần trăm (riêng công nghiệp ước đạt 15.494,5 tỷ đồng, tăng 10,8%, đóng góp 2,89 điểm phần trăm); khu vực III (dịch vụ) ước đạt 22.549,4 tỷ đồng, tăng 10,05%, đóng góp 3,93 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 9.021,4 tỷ đồng, tăng 3,78%, đóng góp 0,63 điểm phần trăm.

1.2. Cơ cấu kinh tế

Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, tăng tỷ trọng khu vực dịch vụ. Khu vực dịch vụ dần trở thành thế mạnh của tỉnh khi ngành du lịch được quan tâm đầu tư phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.

GRDP trên địa bàn toàn tỉnh năm 2024 (theo giá hiện hành) ước đạt trên 98.855,2 tỷ đồng. Chia ra: khu vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản ước đạt 8.456,3 tỷ đồng, chiếm 8,55%; khu vực công nghiệp - xây dựng ước đạt 34.612,3 tỷ đồng, chiếm 35,01%, riêng công nghiệp ước đạt 26.700,6 tỷ đồng, chiếm 27,01%; khu vực dịch vụ ước đạt 40.659,2 tỷ đồng, chiếm 41,14%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm ước đạt 15.127,4 tỷ đồng, chiếm 15,3%.

2. Thu, chi ngân sách Nhà nước trên địa bàn

Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn: Trong bối cảnh kinh tế phải đối mặt với nhiều rủi ro, thách thức, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thị trường xuất khẩu bị ảnh hưởng do chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn, giá nguyên vật liệu đầu vào của một số ngành nghề tăng cao, một số doanh nghiệp phải thu hẹp quy mô sản xuất, thị trường tiêu thụ của một số ngành công nghiệp trọng điểm có số nộp ngân sách lớn đều giảm sút như: Sản xuất ô tô, sản xuất xi măng, sản xuất phân bón, sản xuất camera modul và linh kiện điện tử, sản xuất quần áo...  Cùng với đó, việc triển khai thực hiện các chính sách giảm thuế, gia hạn nộp thuế cho người nộp thuế như: Giảm thu thuế giá trị gia tăng theo Nghị định số 44/2023/NĐ-CP, Nghị định số 94/2023/NĐ-CP, Nghị định số 72/2024/NĐ-CP của Chính phủ; giảm thuế bảo vệ môi trường theo Nghị quyết số 30/2022/UBTVQH15 và Nghị quyết số 42/2023/ UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn; giảm tiền thuê đất theo Quyết định số 25/2023/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ... đã tác động lớn đến kết quả thu ngân sách nhà nước của tỉnh.

Tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh (chưa bao gồm hoàn thuế GTGT) năm 2024 ước thực hiện 20.150,0 tỷ đồng, vượt 8,3% dự toán năm HĐND giao và tăng 24,8% so với năm 2023. Trong đó: thu nội địa ước đạt 16.450,0 tỷ đồng (chiếm 81,6% tổng thu), vượt 9,6% dự toán năm và tăng 17,6%; thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu ước đạt 3.660,0 tỷ đồng (chiếm 18,2% tổng thu), vượt 1,7% dự toán, tăng 71,7%. Một số lĩnh vực thu chủ yếu trong năm 2024 là: Thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh 10.478,6 tỷ đồng, vượt 9,9% dự toán, tăng 1,5%; các khoản thu về nhà đất 3.948,0 tỷ đồng, vượt 3,9% dự toán, gấp 2,1 lần; thuế thu nhập cá nhân 431,0 tỷ đồng, vượt 26,8% dự toán, tăng 23,4%; lệ phí trước bạ 349,2 tỷ đồng, vượt 16,4% dự toán, tăng 18,3%;...

Chi ngân sách địa phương: Các nhiệm vụ chi cơ bản được đảm bảo và đáp ứng nguồn lực cho công tác phòng, chống dịch bệnh, chương trình phục hồi phát triển kinh tế - xã hội, các Chương trình mục tiêu quốc gia, đảm bảo thực hiện cải cách tiền lương, các chính sách an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh và các nhiệm vụ chi quan trọng của địa phương, cân đối đảm bảo đủ nguồn lực để thực hiện các chính sách do trung ương và tỉnh ban hành phát sinh trong năm 2024, đảm bảo đủ nguồn kinh phí để thực hiện tăng lương cơ sở từ 1,8 triệu đồng lên 2,34 triệu đồng/tháng.

Tổng chi cân đối ngân sách địa phương ước thực hiện năm 2024 đạt 18.775,5 tỷ đồng, vượt 7,2% dự toán, tăng 22,4% so với năm 2023. Trong đó: Chi đầu tư phát triển ước thực hiện 8.269,5 tỷ đồng, vượt 19,3% dự toán và tăng 19,8%; chi thường xuyên ước thực hiện 10.501,5 tỷ đồng, vượt 13,3% dự toán, tăng 24,5%; chi trả nợ lãi 3,5 tỷ đồng, bằng dự toán, tăng 57,9%. Chi  thực hiện các chương trình mục tiêu, nhiệm vụ là 662,5 tỷ đồng, bằng dự toán, giảm 62,5% so với thực hiện năm 2023.

3. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản

          Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2024 mặc dù có những khó khăn, bất lợi do ảnh hưởng của thời tiết nhưng vẫn phát triển ổn định và đóng góp vào mức tăng trưởng chung của tỉnh. Dịch bệnh trong chăn nuôi được kiểm soát tốt; công tác bảo vệ và phòng chống cháy rừng tiếp tục được quan tâm; sản xuất thủy sản phát triển khá, không phát sinh dịch bệnh. Ngành Nông nghiệp tích cực ứng dụng phát triển nông nghiệp công nghệ cao, các chuỗi liên kết trong sản xuất và tiêu thụ tiếp tục phát huy hiệu quả.

3.1. Nông nghiệp

3.1.1. Trồng trọt

a) Cây hàng năm: Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm cả năm 2024 ước đạt 91,0 nghìn ha, giảm 0,5% (- 0,4 nghìn ha) so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích cây lương thực có hạt đạt 75,1 nghìn ha, giảm 0,1% (- 0,04 nghìn ha).

 Cây lúa: Diện tích lúa cả năm 2024 đạt 70,8 nghìn ha, giảm 0,1% (- 0,04 nghìn ha); năng suất lúa đạt 61,2 tạ/hạ, giảm 1,3% (- 0,8 tạ/ha); sản lượng lúa ước đạt 433,1 nghìn tấn (trong đó có 5,4 nghìn tấn lúa tái sinh), giảm 1,3% (- 5,8 nghìn tấn).

Lúa Đông Xuân: Diện tích gieo cấy lúa vụ Đông Xuân năm 2024 đạt 39,5 nghìn ha, giảm 0,2% (- 0,08 nghìn ha) so với năm 2023; năng suất lúa Đông Xuân năm 2024 bình quân toàn tỉnh đạt 66,9 tạ/ha, tăng 0,1% (+ 0,1 tạ/ha); sản lượng đạt 264,4 nghìn tấn, giảm 0,1% (- 0,3 nghìn tấn).

Lúa Mùa: Diện tích gieo cấy lúa vụ Mùa năm 2024 đạt 31,2 nghìn ha, tăng 0,1% (+ 0,05 nghìn ha) so với cùng vụ năm trước; năng suất lúa vụ Mùa năm 2024 đạt 52,3 tạ/ha, giảm 3,5% (- 1,9 tạ/ha); sản lượng đạt 163,3 nghìn tấn, giảm 3,3% (- 5,7 nghìn tấn).

Cây ngô: Diện tích cây ngô đạt 4,3 nghìn ha, giảm 0,1% (- 4,0 ha) so với cùng kỳ năm trước; năng suất đạt 39,5 tạ/ha, tăng 1,7% (+ 0,7 tạ/ha); sản lượng đạt 16,9 nghìn tấn, tăng 1,6% (+ 0,3 nghìn tấn).

Tính chung lại: Tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2024 ước đạt 450,1 nghìn tấn, giảm 1,2% (- 5,5 nghìn tấn) so với năm 2023 và đạt 102,9% kế hoạch năm 2024.

Cây lạc: Diện tích đạt 2,0 nghìn ha, giảm 7,4% (- 0,2 nghìn ha); năng suất đạt 31,2 tạ/ha, tăng 3,1% (+ 0,9 tạ/ha); sản lượng đạt 6,3 nghìn tấn, giảm 4,5%   (- 0,3 nghìn tấn).

            Cây rau, đậu: Diện tích cây rau, đậu năm 2024 đạt 9,3 nghìn ha, giảm 2,9% (- 0,3 nghìn ha) so với cùng kỳ năm trước, trong đó cây rau đạt 8,9 nghìn ha, giảm 3,0%, cây đậu đạt 0,4 nghìn ha, giảm 0,5%. Sản lượng rau đậu đạt 181,7 nghìn tấn, giảm 3,7% (- 6,9 nghìn tấn), trong đó sản lượng rau ước đạt 188,1 nghìn tấn, giảm 3,7%; sản lượng đậu ước đạt 0,6 nghìn tấn, giảm 1,1%.

b) Cây lâu năm: Diện tích cây lâu năm năm 2024 ước đạt 7,6 nghìn ha, tăng 0,5% (+ 0,04 nghìn ha) so với năm trước, trong đó diện tích cây ăn quả ước đạt 6,9 nghìn ha, tăng 0,3% (+ 0,02 nghìn ha). Một số loại cây ăn quả có diện tích hiện có chiếm tỉ trọng khá như: Cây dứa đạt 3,4 nghìn ha; cây chuối đạt 1,1 nghìn ha; cây na 0,6 nghìn ha;...

Tổng sản lượng cây ăn quả năm 2024 sơ bộ đạt 115,4 nghìn tấn, tăng 1,0% (+ 1,1 nghìn tấn) so với năm trước, trong đó sản lượng dứa ước đạt 69,8 nghìn tấn, giảm 1,0% (- 0,7 nghìn tấn); sản lượng chuối đạt 22,9 nghìn tấn, tăng 2,5% (+ 0,6 nghìn tấn); sản lượng na đạt 3,9 nghìn tấn, tăng 6,1% (+ 0,2 nghìn tấn); sản lượng bưởi đạt 5,2 nghìn tấn, tăng 7,9% (+ 0,4 nghìn tấn);...

3.1.2. Chăn nuôi

Tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh trong năm phát triển tương đối thuận lợi, dịch bệnh được kiểm soát tốt, tạo môi trường, điều kiện ổn định cho công tác tái đàn, khôi phục sản xuất; giá lợn hơi giữ ở mức cao đem lại hiệu quả kinh tế cho người nuôi. Ngành chăn nuôi là động lực tăng trưởng chính trong sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản năm 2024.

Ước tính đến thời điểm báo cáo, đàn trâu ước đạt 13,0 nghìn con, giảm 0,1% (- 11 con); đàn bò ước đạt 35,4 nghìn con, tăng 2,2% (+ 0,8 nghìn con); đàn lợn ước đạt 299,9 nghìn con, tăng 3,8% (+ 11,0 nghìn con); đàn gia cầm ước đạt 7,1 triệu con, tăng 4,7% (+ 0,3 triệu con).

Sản lượng thịt hơi xuất chuồng năm 2024 ước đạt 70,3 nghìn tấn, tăng 6,1% (+ 4,0 nghìn tấn) so với cùng kỳ năm trước, trong đó thịt trâu hơi xuất chuồng ước đạt trên 1,0 nghìn tấn, tăng 1,7% (+ 0,02 nghìn tấn); thịt bò hơi xuất chuồng ước đạt 2,7 nghìn tấn, tăng 1,7% (+ 0,05 nghìn tấn); thịt lợn hơi xuất chuồng ước đạt 48,1 nghìn tấn, tăng 6,4% (+ 2,9 nghìn tấn); thịt gia cầm hơi xuất chuồng ước đạt 16,7 nghìn tấn, tăng 6,4% (+ 1,0 nghìn tấn). Sản lượng trứng ước đạt 181,7 triệu quả, tăng 4,7% (+ 8,1 triệu quả).

Tình hình dịch bệnh: Trong năm 2024, dịch bệnh trên đàn trâu, bò tiếp tục được kiểm soát tốt, không xuất hiện các ổ dịch truyền nhiễm. Bệnh cúm gia cầm xuất hiện rải rác ở huyện Yên Mô nhưng đã được kiểm soát trong quý I, không lây lan trên diện rộng.

Dịch tả lợn Châu Phi xảy ra lẻ tẻ, quy mô nhỏ ở một số địa phương. Hiện tại, dịch bệnh đã cơ bản được kiểm soát, đến ngày 30/12/2024 toàn tỉnh chỉ còn 01 ổ dịch tả lợn Châu Phi chưa qua 21 ngày tại xã Yên Đồng, huyện Yên Mô. Lũy kế tiêu hủy 988 con, trọng lượng tiêu hủy 52,9 tấn. Số con lợn tiêu hủy giảm 88% (giảm 7.219 con) so với năm 2023.

3.2. Lâm nghiệp

Sản xuất lâm nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào công tác trồng, chăm sóc, bảo vệ, phòng chống cháy rừng và khai thác gỗ từ diện tích rừng đến kỳ khai thác.

Ước tính trong tháng, diện tích rừng trồng mới đạt 13,3 ha, tăng 4,1% so với cùng tháng năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 135,1 nghìn cây, tăng 0,3%; sản lượng gỗ khai thác đạt 2,5 nghìn m3, tăng 6,8%; sản lượng củi khai thác đạt 2,1 nghìn ste, tăng 1,9%.

Tính chung lại: Năm 2024, diện tích rừng trồng mới sơ bộ đạt 292 ha, giảm 2,0% (- 6 ha) so với năm 2023; số cây lâm nghiệp trồng phân tán trong năm sơ bộ đạt 1.001 nghìn cây, tăng 0,9% (+ 9,1 nghìn cây) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng gỗ khai thác năm 2024 sơ bộ đạt 27,4 nghìn m3, tăng 4,6% (+ 1,2 nghìn m3) so với năm trước; sản lượng củi khai thác ước đạt 23,8 nghìn ste, tăng 1,3% (+ 0,3 nghìn ste).

Tính từ đầu năm 2024 đến thời điểm báo cáo đã xảy ra 01 vụ cháy rừng với 0,4 ha diện tích rừng phòng hộ tự nhiên bị cháy ở phường Nam Sơn thành phố Tam Điệp.

3.3. Thủy sản

Năm 2024, hoạt động sản xuất thuỷ sản tiếp tục duy trì và phát triển ổn định. Điều kiện môi trường phù hợp, thị trường tiêu thụ thuỷ sản có nhiều thuận lợi, việc đa dạng hình thức và đối tượng nuôi đã góp phần làm tăng sức cạnh tranh cũng như giá trị của sản phẩm thủy sản nuôi trồng. Sản xuất giống nhuyễn thể tiếp tục phát triển, quy trình ngày càng được hoàn thiện đảm bảo cung cấp cho nhu cầu của thị trường.

Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản năm 2024 ước đạt 15,1 nghìn ha, giảm 1,4%  (- 0,2 nghìn ha) so với cùng kỳ năm trước; trong đó, diện tích nuôi cá đạt 10,9 nghìn ha, giảm 1,9% (- 0,2 nghìn ha), chủ yếu do giảm diện tích nuôi cá trên ruộng của huyện Hoa Lư. Diện tích nuôi tôm thẻ thâm canh, bán thâm canh ước đạt 873 ha, tăng 3,9% so với cùng kỳ năm trước.

Sản lượng thu hoạch thủy sản tháng Mười hai ước đạt 6,0 nghìn tấn, tăng 4,2% (+ 0,2 nghìn tấn), trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 5,5 nghìn tấn, tăng 4,2% (+ 0,2 nghìn tấn); sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 0,5 nghìn tấn, tăng 4,0%.

Sản lượng thuỷ sản năm 2024 toàn tỉnh ước đạt 72,5 nghìn tấn, tăng 4,7% (+ 3,2 nghìn tấn) so với năm trước, trong đó sản lượng nuôi trồng đạt 64,6 nghìn tấn, tăng 4,6% (+ 2,8 nghìn tấn); sản lượng thuỷ sản khai thác đạt 7,9 nghìn tấn, tăng 5,3% (+ 0,4 nghìn tấn). Chia theo loại thủy sản, sản lượng cá đạt 38,3 nghìn tấn, tăng 3,7% (+ 1,3 nghìn tấn); sản lượng tôm đạt 4,7 nghìn tấn, tăng 16,4%   (+ 0,7 nghìn tấn); sản lượng thuỷ sản khác đạt 29,5 nghìn tấn, tăng 4,3% (+ 1,2 nghìn tấn).

4. Sản xuất công nghiệp

Sau năm 2023 gặp nhiều khó khăn, sản xuất công nghiệp của tỉnh trong năm 2024 từng bước phục hồi, đạt được tốc độ tăng trưởng khá so với cùng kỳ, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục giữ vai trò quan trọng đóng góp tích cực vào mức tăng chung của toàn ngành công nghiệp.

4.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)

Chỉ số IIP toàn tỉnh tháng Mười hai năm nay ước tính tăng 10,17% so với cùng tháng năm trước, trong đó ngành khai khoáng tăng 0,73%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 12,42%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,45%; duy nhất ngành sản xuất và phân phối điện giảm 40,53%.

So với tháng trước, IIP toàn tỉnh tháng này giảm 3,17%, trong đó ngành khai khoáng giảm 3,70%; công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 3,14%; sản xuất và phân phối điện giảm 4,88%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải giảm 2,12%.

Tính chung lại cả năm 2024, chỉ số IIP toàn tỉnh tăng 11,33%, trong đó ngành khai khoáng tăng 16,81%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,33%; sản xuất và phân phối điện tăng 11,94%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,41%.

4.2. Giá trị sản xuất công nghiệp

Tính theo giá so sánh 2010, giá trị sản xuất công nghiệp tháng Mười Hai toàn tỉnh ước đạt 10.908,1 tỷ đồng, tăng 7,0% so với cùng tháng năm trước. Trong đó: Khai khoáng đạt 64,9 tỷ đồng, tăng 3,6%; công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 10.727,0 tỷ đồng, tăng 7,7%; sản xuất và phân phối điện đạt 93,5 tỷ đồng, giảm 37,4%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải đạt 22,7 tỷ đồng, tăng 4,8%.

Tính chung lại, tổng giá trị sản xuất ngành công nghiệp cả năm 2024 toàn tỉnh ước đạt 105.968,8 tỷ đồng, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Khai khoáng đạt 1.098,3 tỷ đồng, tăng 16,7%; công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 103.483,7 tỷ đồng, tăng 9,1%; sản xuất và phân phối điện đạt 1.157,0 tỷ đồng, tăng 11,2%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải đạt 229,8 tỷ đồng, tăng 6,3%.

4.3. Sản phẩm công nghiệp chủ yếu

Trong tháng Mười Hai năm 2024 một số sản phẩm có mức sản xuất tăng khá so với cùng tháng năm trước là: Dứa đóng hộp 0,8 nghìn tấn, tăng 68,2%; nước dứa tươi 0,6 triệu lít, tăng 46,3%; nước khoáng không có ga 0,4 triệu lít, tăng 19,1%; quần áo các loại 6,6 triệu cái, tăng 10,1%; xi măng (kể cả clanke) 0,7 triệu tấn, tăng 36,6%; linh kiện điện tử 9,7 triệu cái, tăng 10,2%; modul camera 18,7 triệu cái, tăng 29,9%; kính máy ảnh 0,2 triệu cái, tăng 35,2%; xe ô tô 5 chỗ ngồi trở lên 4,9 nghìn chiếc, tăng 20,0%; ghế ngồi dùng cho xe có động cơ 25,9 nghìn chiếc, tăng 25,1%; cần gạt nước ô tô 0,6 triệu cái, tăng 61,5%; búp bê 15,0 triệu con, tăng 11,1%; điện thương phẩm 0,2 tỷ Kwh, tăng 11,3%;... Bên cạnh đó, một số sản phẩm có mức sản xuất giảm sút như: Hàng thêu 45,8 nghìn m2, giảm 19,6%; phân Ure 31,7 nghìn tấn, giảm 17,7%; phân NPK 10,5 nghìn tấn, giảm 21,6%; cấu kiện nhà lắp sẵn bằng kim loại 65,8 tấn, giảm 41,5%; tai nghe điện thoại di động 4,5 nghìn cái, giảm 93,1%; đồ chơi hình con vật 1,7 triệu con, giảm 37,5%; điện sản xuất 28,6 triệu Kwh, giảm 65,0%;…

Tính chung lại, cả năm 2024 các sản phẩm công nghiệp có mức sản xuất tăng khá so với cùng kỳ năm 2023 là: Đá các loại 4,3 triệu m3, tăng 16,1%; giày dép các loại 68,7 triệu đôi, tăng 17,5%; phân Ure 0,5 triệu tấn, tăng 21,1%; phân NPK 0,1 triệu tấn, tăng 34,7%; phân lân nung chảy 0,2 triệu tấn, tăng 30,9%; thép cán các loại 0,3 triệu tấn, tăng 21,5%; xe ô tô 5 chỗ ngồi trở lên 52,0 nghìn chiếc, tăng 15,8%; ghế ngồi dùng cho xe có động cơ 0,3 triệu chiếc, tăng 27,7%; cần gạt nước ô tô 6,1 triệu cái, tăng 28,4%; đồ chơi hình con vật 30,1 triệu con, tăng 40,1%; điện sản xuất 0,7 tỷ Kwh, tăng 11,5%; điện thương phẩm 2,8 tỷ Kwh, tăng 12,6%;... Tuy nhiên, một số sản phẩm có mức sản xuất giảm sút là: Thức ăn gia súc 25,3 nghìn tấn, giảm 10,3%; hàng thêu 0,9 triệu m2, giảm 49,4%; cấu kiện nhà lắp sẵn bằng kim loại 0,3 nghìn tấn, giảm 48,7%; modul camera 177,6 triệu cái, giảm 16,7%; tai nghe điện thoại di động 0,4 triệu cái, giảm 81,0%; búp bê 190,8 triệu con, giảm 10,7%;…

 4.4. Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo

Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 12 năm 2024 giảm 9,78% so với tháng 12/2023. Trong đó, một số ngành có chỉ số tồn kho giảm cùng tháng năm trước như: Sản xuất đồ uống giảm 72,7%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 57,35%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 26,46%; sản xuất kim loại giảm 14,66%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy tính và sản phẩm quang học giảm 13,13%; sản xuất thiết bị điện giảm 14,71%; sản xuất xe có động cơ giảm 75,75%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác giảm 2,98%;... Tuy nhiên, một số ngành lại có chỉ số tồn kho tăng cao như: Sản xuất trang phục gấp 2,0 lần; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế), sản xuất sản phẩm rơm, rạ và vật liệu tết bện tăng 47,72%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy gấp 4,5 lần; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic gấp 7,1 lần;...

Số lượng tồn kho một số sản phẩm đến 30/11/2024 là: Giầy dép 2,6 triệu đôi; đạm Ure 36,2 nghìn tấn; phân NPK 21,3 nghìn tấn; phân lân nung chảy 16,2 nghìn tấn; kính xây dựng 63,4 nghìn tấn; xi măng 14,7 nghìn tấn; thanh, que sắt hoặc thép không hợp kim, được cán nóng 11,6 nghìn tấn; bản vi mạch điện tử 20,7 triệu chiếc; camera và linh kiện điện tử 16,0 triệu cái; xe ô tô từ 5 chỗ ngồi trở lên 394 chiếc;...

5. Vốn đầu tư thực hiện

Tổng vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn toàn tỉnh năm 2024 ước đạt 34.191,2 tỷ đồng, tăng 6,3% so với năm 2023. Chia ra: Vốn Nhà nước đạt 7.546,9 tỷ đồng, tăng 7,1%; vốn ngoài Nhà nước đạt 24.778,9 tỷ đồng, tăng 5,2%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 1.865,4 tỷ đồng, tăng 19,3%.

Một số công trình, dự án chủ yếu trong năm 2024 có khối lượng vốn đầu tư thực hiện lớn như:

Khu vực đầu tư công: Dự án xây dựng cơ sở hạ tầng khu du lịch sinh thái Tràng An và các dự án thành phần ước đạt 517 tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đường Đông - Tây, tỉnh Ninh Bình (giai đoạn I) ước đạt 437,1 tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đường bộ ven biển qua tỉnh Ninh Bình (giai đoạn 1 và giai đoạn 2) ước đạt 259,6 tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đường ĐT.482 kết nối quốc lộ 1A với quốc lộ 10 và kết nối quốc lộ 10 với quốc lộ 12B ước đạt 233,7 tỷ đồng; dự án xây dựng Trường Đại học Hoa Lư (giai đoạn 2) ước đạt 200 tỷ đồng; dự án đầu tư xây dựng cầu vượt sông Vân và đường dẫn phía Tây sông Vân, tỉnh Ninh Bình ước đạt 127,2 tỷ đồng; dự án nâng cấp tuyến đường chính vào khu du lịch suối Kênh Gà và động Vân Trình (giai đoạn 2) ước đạt 116,2 tỷ đồng;…

Khu vực sử dụng vốn ODA: Dự án cải thiện cơ sở hạ tầng đô thị nhằm giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu cho 04 tỉnh ven biển Bắc Trung Bộ - Tiểu dự án cải thiện cơ sở hạ tầng đô thị Phát Diệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình ước đạt 159,2 tỷ đồng.

Khu vực doanh nghiệp Nhà nước: Các dự án xây dựng, sửa chữa công trình điện, mua sắm máy móc, thiết bị của Công ty TNHH MTV Điện lực Ninh Bình ước đạt trên 106,7 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc thiết bị của Công ty TNHH MTV đạm Ninh Bình ước đạt trên 6,4 tỷ đồng;…

Khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước: Dự án xây dựng cở sở hạ tầng Cụm công nghiệp Khánh Lợi I của Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Hạ tầng Bảo Minh - Khánh Hồng ước đạt 351,8 tỷ đồng; dự án xây dựng sân golf 54 lỗ hồ Yên Thắng của Công ty Cổ phần đầu tư PV – Inconess ước đạt 86,6 tỷ đồng; dự án trụ sở văn phòng làm việc Ninh Bình của Công ty TNHH Xuân Thiện Ninh Bình ước đạt 69,3 tỷ đồng; dự án xây dựng mạng lưới đường ống cấp nước của Công ty Cổ phần Cấp thoát nước Ninh Bình ước đạt 51,8 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất xi măng của Công ty Cổ phần Vissai Ninh Bình ước đạt 79,8 tỷ đồng;…

Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: Dự án mua sắm tài sản, lắp đặt máy móc thiết bị phục vụ sản xuất camera module của Công ty TNHH MCNEX Vina ước đạt 329,8 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc thiết bị trong nhà xưởng phục vụ sản xuất và mua sắm máy móc thiết bị của Công ty TNHH giầy Athena Việt Nam ước đạt 203,5 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất của Công ty TNHH Great Global International ước đạt 104 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà máy sản xuất công cụ cầm tay cao cấp của Công ty TNHH Công nghiệp Cibon Việt Nam ước đạt 98,1 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà xưởng và mua sắm máy móc thiết bị của Công ty TNHH Điện tử chính xác Hợp Chí Việt Nam ước đạt 99,6 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà xưởng sản xuất giày và khu ký túc xá của Công ty TNHH Ever Great International ước đạt 91,8 tỷ đồng;...

Trong năm 2024 một số dự án hoàn thành và đưa vào sử dụng như: Xây dựng trụ sở Huyện Ủy, HĐND và UBND huyện Kim Sơn với năng lực mới tăng là 14.980 m2; xây dựng khu Trung tâm Thể dục thể thao huyện Kim Sơn với năng lực mới tăng là 4.000 chỗ ngồi; xây dựng cơ sở hạ tầng khu dân cư Nguyên Ngoại 2 xã Ninh Nhất với năng lực mới tăng là 13,6 km; xây dựng cầu qua sông Hệ và tuyến đường dân sinh đến quốc lộ 1 tránh thành phố Ninh Bình, xã Ninh Vân, huyện Hoa Lư với năng lực mới tăng là 1,1 km; cơ sở hạ tầng khu Trung tâm Thể dục thể thao kết hợp công viên cây xanh tại Thị trấn Yên Thịnh với năng lực mới tăng là 13.454 m2;  xây dựng trung tâm hành chính công huyện Nho Quan và hạ tầng chuyển đổi số với năng lực mới tăng là 780 m2; xử lý cấp bách chống sạt lở đê hữu sông Vạc và đê tả sông Vó, xã Ninh An với năng lực mới tăng là 1,9 km;…

6. Thương mại, dịch vụ

Trong năm 2024, hoạt động thương mại và dịch vụ trên địa bàn tỉnh diễn ra sôi động, hoạt động du lịch phát triển mạnh kéo theo các ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành tăng trưởng cao, hoạt động xuất, nhập khẩu phục hồi tích cực, hoạt động vận tải tăng khá, đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa và đi lại của người dân.

6.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ

Doanh thu bán lẻ hàng hóa trên thị trường toàn tỉnh trong tháng Mười Hai ước đạt trên 8.343,4 tỷ đồng, tăng 21,8% so với tháng 12/2023. Trong năm 2024, doanh thu bán lẻ hàng hóa toàn tỉnh ước thực hiện trên 82.470,8 tỷ đồng, tăng 25,7% so với năm 2023. Tất cả các nhóm hàng đều có doanh thu bán lẻ tăng, trong đó một số nhóm hàng đạt mức tăng cao so với cùng kỳ như: Lương thực, thực phẩm ước đạt 30.170,8 tỷ đồng, tăng 26,1%; hàng may mặc 4.086,4 tỷ đồng, tăng 28,9%; vật phẩm văn hóa, giáo dục 525,6 tỷ đồng, tăng 49,7%; gỗ và vật liệu xây dựng 18.722,8 tỷ đồng, tăng 26,4%; ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) 6.710,2 tỷ đồng, tăng 30,6%; xăng, dầu các loại 7.777,7 tỷ đồng, tăng 24,0%; nhiên liệu khác (trừ xăng, dầu) 725,6 tỷ đồng, tăng 34,4%; doanh thu sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 3.890,0 tỷ đồng, tăng 34,6%; hàng hóa khác 1.166,4 tỷ đồng, tăng 40,8%.

Trong thời gian qua, với việc định hướng phát triển du lịch một cách bền vững, các cấp, ngành, địa phương trong tỉnh đã luôn chú trọng việc tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước trong hoạt động du lịch, khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch, nâng cao chất lượng phục vụ, từng bước đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, đổi mới các tuyến du lịch tạo nên diện mạo mới đáp ứng được nhu cầu thị hiếu của du khách. Vì thế, lượng du khách đến với Ninh Bình tăng cao trong thời gian qua góp phần làm tăng doanh thu của các ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành. Trong tháng Mười hai, doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống toàn tỉnh ước đạt trên 851,6 tỷ đồng, tăng 18,2% so với tháng 12/2023; doanh thu từ hoạt động du lịch lữ hành ước đạt 2,6 tỷ đồng, bằng 26,0% cùng kỳ; doanh thu từ một số ngành dịch vụ khác ước đạt 618,3 tỷ đồng, tăng 21,8%. Trong năm 2024, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 9.540,3 tỷ đồng, tăng 27,1% so với cả năm 2023; doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 89,4 tỷ đồng, tăng 23,0%; doanh thu một số ngành dịch vụ khác 6.343,4 tỷ đồng, tăng 14,1%.

6.2. Chỉ số giá

Chỉ số giá tiêu dùng: Tiếp tục diễn biến theo chiều hướng tăng, chỉ số giá tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ chung trên địa bàn tỉnh (CPI) trong tháng Mười Hai ghi nhận mức tăng nhẹ 0,08% so với tháng trước. So với tháng 12/2023 CPI tăng 3,17%. Bình quân cả năm 2024, CPI tăng 4,02% so với năm trước.

Trong mức tăng 0,08% của CPI tháng 12/2024 so với tháng trước, có 08 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, 02 nhóm có chỉ số giá ổn định, duy nhất có 01 nhóm có chỉ số giá giảm. Tám nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm: Nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng mạnh nhất với mức 0,75%, nguyên nhân do trong tháng thời tiết chuyển lạnh nên nhu cầu mua sắm quần áo, giày dép của người dân tăng, giá quần áo may sẵn tăng 0,71%, giá giày dép tăng 1,05%; nhóm giao thông tăng 0,51% chủ yếu do giá xăng được điều chỉnh tăng 1,28% kéo theo giá nhóm nhiên liệu tăng 1,24%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,44% do giá thuốc lá tăng 1,31%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,29%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,17%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,1%; hai nhóm thuốc và dịch vụ y tế và nhóm văn hóa, giải trí và du lịch lần lượt tăng nhẹ 0,02% và 0,01%. Hai nhóm có chỉ số giá giữ nguyên là nhóm giáo dục và nhóm bưu chính viễn thông. Nhóm có chỉ số giá giảm là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,23%, trong đó nhóm lương thực tăng 0,74%, nhóm thực phẩm giảm 0,5%, nhóm ăn uống ngoài gia đình tăng 0,11%. Nhóm thực phẩm giảm chủ yếu do tác động của nhóm rau tươi, khô và chế biến khi một số loại rau vào chính vụ thu hoạch, năng suất cao nên nguồn cung ra thị trường dồi dào, vì thế giá một số loại rau giảm nhiều: Bắp cải giảm 8,24%; su hào giảm 9,28%; cà chua giảm 8,34%, rau muống giảm 9,34%; rau dạng củ, quả giảm 5,74%; rau tươi khác giảm 7,42%; rau chế biến các loại giảm 3,57%.

CPI bình quân năm 2024 tăng 4,02% so với bình quân năm trước. Có đến 10/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 5,25% (lương thực tăng 16,08%, thực phẩm tăng 5,49%, ăn uống ngoài gia đình tăng 0,48%); nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,32%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 5,39%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 3,99%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,5%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 7,77%; nhóm bưu chính viễn thông tăng 0,07%; nhóm giáo dục tăng 1,9%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 3,75% và nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 7,39%. Duy nhất nhóm giao thông giảm 0,18%.

Chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ:  Chỉ số giá vàng tháng Mười hai giảm 0,18% so với tháng trước và tăng 37,35% so với tháng 12/2023. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng này tăng 0,61% so với tháng 11/2024 và tăng 5,6% so với cùng tháng năm trước. Bình quân năm 2024, chỉ số giá vàng tăng 32,26%, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 5,12% so với bình quân năm 2023.

6.3. Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Trong bối cảnh nền kinh tế có sự phục hồi so với năm 2023, tuy nhiên vẫn tiềm ẩn nhiều khó khăn như thiên tai, dịch bệnh ở trong nước, bất ổn chính trị ở một số nước trên thế giới, tăng trưởng thương mại toàn cầu được cải thiện nhưng còn chậm, thiếu bền vững... là nguyên nhân làm chậm sự phục hồi của hoạt động xuất, nhập khẩu trong nước cũng như trên địa bàn tỉnh.

Xuất khẩu: Giá trị xuất khẩu hàng hóa trên địa bàn tỉnh tháng Mười hai đạt gần 291,0 triệu USD, tăng 0,9% so với cùng tháng năm trước.

 Tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa toàn tỉnh năm 2024 ước thực hiện 3.379,8 triệu USD, tăng 6,3% so với năm trước và vượt 4,0% so với kế hoạch năm. Trong đó, một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn là: Giày dép các loại ước đạt 992,4 triệu USD; camera và linh kiện 740,8 triệu USD; xi măng và clanke 521,2 triệu USD; quần áo các loại 314,7 triệu USD; linh kiện điện tử 154,3 triệu USD, linh kiện phụ tùng ô tô các loại 144,4 triệu USD...

Một số mặt hàng có mức tăng khá so với cùng kỳ như: Giày, dép các loại 68,1 triệu đôi, tăng 15,8%; linh kiện điện tử 154,3 triệu USD, tăng 34,4%; đồ chơi trẻ em 18,8 triệu con, tăng 49,3%; phân ure 68,7 nghìn tấn, tăng 41,0%; linh kiện phụ tùng ô tô các loại 144,4 triệu USD, tăng 37,7%; túi nhựa 2,3 nghìn tấn, tăng 67,1%; hàng thêu ren 240,1 nghìn chiếc, tăng 29,0%... Tuy nhiên một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực lại giảm sút so với cùng kỳ như: Dứa, dưa chuột đóng hộp 7,9 nghìn tấn, giảm 17,8%; xi măng và clanke 13,0 triệu tấn, giảm 22,3%; camera và linh kiện 174,4 triệu sản phẩm, giảm 21,8%... Một số mặt hàng xuất khẩu tuy giảm số lượng nhưng giá trị xuất khẩu tăng như: Quần áo các loại, camera và linh kiện, kính quang học.

Nhập khẩu: Giá trị nhập khẩu tháng Mười hai ước đạt 282,5 triệu USD, tăng 6,9% so với cùng tháng năm trước. Tổng giá trị nhập khẩu hàng hóa trên địa bàn tỉnh năm 2024 ước đạt 3.219,4 triệu USD, tăng 14,3% so với năm 2023 và vượt 0,6% kế hoạch năm.

Trị giá các nhóm mặt hàng nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn là: Linh kiện phụ tùng ô tô các loại 996 triệu USD; linh kiện điện tử 848,9 triệu USD; phụ liệu sản xuất giày, dép 637,5 triệu USD; vải may mặc các loại 147,4 triệu USD; ô tô 81,2 triệu USD.

6.4. Vận tải hành khách và hàng hóa

Trong năm, nhiều công trình giao thông được khởi công, xây dựng và hoàn thành đã mở rộng cơ sở hạ tầng kết nối các địa phương trong và ngoài tỉnh, giúp cho việc vận chuyển hàng hóa và hành khách thuận tiện hơn. Bên cạnh đó, giá xăng dầu từ đầu năm đến nay tương đối ổn định giúp các đơn vị vận tải tập trung cho kế hoạch sản xuất, tiếp tục nâng cao năng lực vận tải để phục vụ nhu cầu vận chuyển ngày càng cao.

Vận tải hành khách: Trong tháng Mười hai, các đơn vị vận tải trên địa bàn tỉnh ước vận chuyển trên 6,0 triệu lượt khách, tăng 33,5% và 275,5 triệu lượt khách.km, tăng 30,4% so với cùng tháng năm trước. Tính chung cả năm 2024, vận tải hành khách toàn tỉnh ước thực hiện gần 55,0 triệu lượt khách, tăng 22,7% và luân chuyển trên 2.545,5 triệu lượt khách.km, tăng 19,3% so với năm trước, vượt 12,7% kế hoạch năm. Trong đó: Vận tải đường bộ ước đạt 43,8 triệu lượt khách, tăng 22,5% và 2.501,6 triệu lượt khách.km, tăng 19,2%; vận tải đường thủy nội địa 11,2 triệu lượt khách, tăng 23,6% và 43,9 triệu lượt khách.km, tăng 22,4%.

Vận tải hàng hóa: Thực hiện trong tháng Mười hai ước đạt trên 18,9 triệu tấn vận chuyển, tăng 22,9% và 2.592,7 triệu tấn.km, tăng 23,2% so với tháng 12/2023. Trong cả năm 2024, khối lượng hàng hóa vận chuyển của tỉnh ước đạt gần 177,2 triệu tấn, tăng 20,7% so với năm trước. Trong đó: Vận tải đường bộ ước đạt 64,3 triệu tấn, tăng 21,1%; vận tải đường thủy nội địa 100,5 triệu tấn, tăng 19,7%; vận tải đường biển 12,4 triệu tấn, tăng 27,6%. Khối lượng luân chuyển hàng hóa ước thực hiện cả năm gần 23.908,4 triệu tấn.km, tăng 21,4% so với cùng kỳ năm trước và vượt 62,5% kế hoạch năm. Trong đó: Vận tải đường bộ ước đạt 2.645,0 triệu tấn.km, tăng 20,6%; vận tải đường thủy nội địa 14.550,5 triệu tấn.km, tăng 18,9%; vận tải đường biển 6.712,9 triệu tấn.km, tăng 27,6%.

Doanh thu vận tải: Ước thực hiện trong tháng Mười hai trên 2.304,7 tỷ đồng, tăng 26,3%. Trong cả năm nay, doanh thu hoạt động vận tải toàn tỉnh ước đạt 21.128,0 tỷ đồng, tăng 20,8% so với năm 2023. Phân theo loại hình vận tải: Vận tải hành khách ước thực hiện 2.548,1 tỷ đồng, tăng 21,1%, vượt 6,1% kế hoạch năm; vận tải hàng hóa 16.524,9 tỷ đồng, tăng 21,2% và vượt 36,5% kế hoạch năm; doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải 1.922,0 tỷ đồng, tăng 17,7%; doanh thu bưu chính, chuyển phát 133,0 tỷ đồng, tăng 12,0%.

6.5. Hoạt động du lịch

Hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh tiếp tục khởi sắc, với việc định hướng phát triển du lịch một cách bền vững, thời gian qua do có tầm nhìn, chiến lược rõ ràng nên các sản phẩm du lịch của tỉnh mang dấu ấn riêng, có chiều sâu văn hóa, có chất lượng tốt đã tạo ra thương hiệu cho du lịch Ninh Bình. Nhiều sản phẩm du lịch đã được khẳng định trên thị trường trong nước và quốc tế, trở thành những sản phẩm đặc trưng, điểm nhấn về du lịch của tỉnh, tạo hiệu ứng lan tỏa sâu rộng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu, thị hiếu của du khách, Ninh Bình tiếp tục khẳng định là điểm đến hàng đầu của du khách trong và ngoài nước.

Tổng số lượt khách đến các điểm thăm quan, du lịch trên địa bàn tỉnh trong tháng Mười hai ước đạt 516,1 nghìn lượt khách, tăng 3,3% so với cùng tháng năm trước, chia ra: Khách trong nước 397,2 nghìn lượt khách, giảm 9,1%; khách quốc tế 118,9 nghìn lượt khách tăng 90,6%; số lượt khách đến các cơ sở lưu trú đạt 184,9 nghìn lượt, tăng 15,6%; số ngày khách lưu trú ước đạt 218,6 nghìn ngày.khách, tăng 6,7%. Doanh thu du lịch ước đạt 676,9 tỷ đồng, tăng 35,5%, trong đó: Doanh thu lưu trú 85,2 tỷ đồng, tăng 21,9%; doanh thu ăn uống 336,3 tỷ đồng, tăng 42,6%.

Ước tính số lượt khách đến các điểm tham quan, du lịch trên địa bàn tỉnh năm 2024 đạt 8.724,5 nghìn lượt khách, tăng 29,4% so với cùng kỳ năm trước, vượt 16,3% so với kế hoạch. Chia ra: Khách trong nước 7.492,3 nghìn lượt, tăng 19,4%; khách quốc tế 1.232,2 nghìn lượt, gấp 2,6 lần. Tổng số lượt khách đến các cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh ước đạt 2.028,4 nghìn lượt khách, tăng 45,3%, vượt 29,3% so với kế hoạch; số ngày khách lưu trú ước đạt 2.339,8 nghìn ngày khách, tăng 28,3%. Doanh thu du lịch ước đạt 9.172,4 tỷ đồng, tăng 40,1% so với năm trước, vượt 11,2% so với kế hoạch năm, trong đó doanh thu lưu trú 862,2 tỷ đồng, tăng 25,3%; doanh thu ăn uống 4.567,6 tỷ đồng, tăng 38,6%.

         7. Một số vấn đề xã hội

Năm 2024, nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi, tuy nhiên vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ, thách thức do những bất ổn chính trị trên thế giới, dịch bệnh, thiên tai, bão lũ diễn biến phức tạp, đặc biệt là ảnh hưởng của cơn bão số 3 (Yagi), cơn bão mạnh nhất trong vòng 30 năm qua gây thiệt hại nặng nề ở nhiều địa phương, gây ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Trước tình hình đó các cấp ủy Đảng, Chính quyền cùng với các ngành, các địa phương đã tập trung chỉ đạo, điều hành quyết liệt có trọng tâm, trọng điểm, triển khai nhanh chóng, kịp thời các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, của địa phương tới người dân, doanh nghiệp, góp phần tháo gỡ khó khăn, ổn định sản xuất và đời sống.

7.1. Dân số, lao động việc làm

Sơ bộ ước tính dân số trung bình năm 2024 tỉnh Ninh Bình đạt 1.030,3 nghìn người, tăng 1,3%  (+13,2 nghìn người) so với năm 2023, chia ra: Dân số nam 514,7 nghìn người, chiếm 49,95%; dân số nữ 515,6 nghìn người, chiếm 50,05%. Dân số thành thị 224,6 nghìn người, chiếm 21,8%; dân số nông thôn 805,7 nghìn người, chiếm 78,2%.

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên trên địa bàn tỉnh năm 2024 ước tính 495,8 nghìn người, tăng 0,6% so với năm trước. Chia ra, khu vực thành thị 103,0 nghìn người, chiếm 20,77%; khu vực nông thôn 392,8 nghìn người, chiếm 79,23%.

Tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế năm 2024 ước tính 493,8 nghìn người, tăng 1,3% so với năm 2023. Chia ra: Lao động ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản 78,1 nghìn người, tăng 0,7%; lao động ngành công nghiệp, xây dựng 237,1 nghìn người, tăng 1,1%; lao động ngành dịch vụ 178,6 nghìn người, tăng 1,9%.

Trong năm, toàn tỉnh đã giải quyết việc làm cho 20,6 nghìn lao động, trong đó xuất khẩu lao động trên 1,9 nghìn người; tổ chức đào tạo nghề cho 17,7 nghìn lao động; tư vấn, giới thiệu việc làm cho gần 38,0 nghìn lao động; giải quyết cho 6,5 nghìn lao động được hưởng bảo hiểm thất nghiệp; 7,5 nghìn lao động được vay vốn ưu đãi giải quyết việc làm.

7.2. Đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội

Công tác an sinh xã hội, giảm nghèo luôn được quan tâm thực hiện. Trong năm đã thực hiện hỗ trợ đóng và cấp phát miễn phí thẻ bảo hiểm y tế cho gần 631,4 nghìn đối tượng là hộ nghèo, hộ cận nghèo, các đối tượng bảo trợ xã hội, người cao tuổi, trẻ em dưới 6 tuổi, học sinh, sinh viên và hộ nông lâm ngư có mức sống trung bình...; giải quyết cho 1.015 lượt đối tượng là hộ nghèo, hộ cận nghèo được vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội để phát triển sản xuất, với tổng kinh phí là 64,1 tỷ đồng; hỗ trợ tiền điện sinh hoạt cho 5.905 hộ nghèo, với tổng kinh phí trên 4,2 tỷ đồng. Hoàn thành xây mới và sửa chữa nhà ở cho 419 hộ nghèo và cận nghèo, với tổng kinh phí 36,9 tỷ đồng.

Hỗ trợ đột xuất cho các đối tượng trên địa bàn tỉnh bị ảnh hưởng do bão số 3 (Yagi): Tính đến ngày 20/12/2024, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Hội Chữ thập đỏ tỉnh đã thực hiện hỗ trợ tiền mặt, gạo và nhu yếu phẩm của các cơ quan, đơn vị, cá nhân và cộng đồng dân cư trong và ngoài tỉnh với giá trị là 14.821,4 triệu đồng. Trong đó: Hỗ trợ tiền mặt 11.348 triệu đồng; 07 tấn gạo và nhu yếu phẩm các loại ước tính khoảng 3.473,4 triệu đồng.

Công tác bảo trợ xã hội và đền ơn đáp nghĩa cũng được thường xuyên quan tâm với tinh thần tương thân, tương ái, động viên kịp thời về vật chất và tinh thần, giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn ổn định cuộc sống, nhất là trong những dịp Lễ, Tết. Trong năm, các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư đã quan tâm động viên thăm hỏi, tặng quà cho các gia đình chính sách, hộ nghèo, cận nghèo, gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, các đối tượng bảo trợ xã hội...với tổng số kinh phí 86.755 triệu đồng, tặng cho 246.288 lượt đối tượng. Trong đó: 173.191 lượt đối tượng là gia đình chính sách, người có công với cách mạng, với tổng kinh phí 51.629 triệu đồng; 23.040 lượt đối tượng là người cao tuổi, với tổng kinh phí 8.625 triệu đồng; 34.734 lượt đối tượng là hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ khó khăn, với tổng kinh phí 18.235 triệu đồng; 1.733 đối tượng là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, với tổng kinh phí 888 triệu đồng; 1.661 đối tượng bảo trợ xã hội, với tổng kinh phí 680 triệu đồng.

Ngoài ra, các cấp Công đoàn trong tỉnh đã tổ chức thăm hỏi và trao tặng 105.992 xuất quà cho công nhân và con em của công nhân, người lao động với kinh phí 31.947 triệu đồng.

7.3. Giáo dục, đào tạo[2]

Trong năm, ngành giáo dục Ninh Bình đã tích cực triển khai thực hiện nhiệm vụ công tác, hoàn thành đúng kế hoạch thời gian năm học, đạt kết quả toàn diện trên các mặt, trong đó có nhiều điểm sáng, nổi bật là: Mạng lưới trường, lớp được tập trung quy hoạch, phát triển; cơ sở vật chất được đầu tư nâng cấp, tạo nhiều chuyển biến rõ nét, tỷ lệ phòng học kiên cố hóa đạt 98,7%. Tỷ lệ đạt chuẩn quốc gia ở cấp Mầm non là 98,7%; cấp Tiểu học (mức độ 2) đạt 81,4%; cấp THCS đạt 100% và cấp THPT đạt 81,5%. Chất lượng giáo dục đại trà và chất lượng mũi nhọn nâng lên, là năm học ghi dấu ấn về chất lượng giáo dục của tỉnh Ninh Bình. Kết quả cụ thể:

Tại kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia THPT năm học 2023-2024, có 71/82 học sinh đoạt giải, đạt tỷ lệ 86,6%, xếp thứ 6 toàn quốc, cao hơn 28,93% so với tỷ lệ đoạt giải của toàn quốc; Kết quả kỳ thi THPT năm 2024 của tỉnh Ninh Bình tiếp tục đạt thành tích nổi bật, điểm trung bình tất cả các bài thi của thí sinh đạt 7,35 điểm, tăng 0,32 điểm so với năm 2023 và xếp thứ Hai toàn quốc. Tỷ lệ đỗ tốt nghiệp THPT đạt 99,95%.

Trong năm, đã tổ chức thành công các kỳ thi, cuộc thi, hội thi, giao lưu cấp tỉnh, tham gia các cuộc thi cấp quốc gia, quốc tế đạt được nhiều thành tích, nổi bật như: Tham gia thi Olympic Toán học dành cho học sinh THPT chuyên năm 2024, có 08/10 học sinh đạt giải, trong đó có 01 giải Nhì, 06 giải Ba và 01 giải Khuyến khích; tham dự vòng chung kết Kỳ thi Olympic Tin học Miền Trung - Tây Nguyên, lần thứ V, năm 2024, có 16 thí sinh tham gia dự thi, đạt 03 giải Vàng, 01 giải Bạc, 06 giải Đồng, 06 giải Khuyến khích; tham dự cuộc thi “Học sinh, sinh viên với ý tưởng khởi nghiệp” lần thứ VI, cấp quốc gia năm 2024, đạt 01 giải Nhì; tham dự Hội thi Đình Trạng Nguyên Tiếng Việt, đạt 01 giải Tiến sỹ, 04 giải Nhì, 08 giải Ba và 03 giải Khuyến khích; tham gia Hội thi học sinh giỏi “Trại hè Hùng Vương” lần thứ XVIII năm 2024, đạt 60 huy chương, gồm: 14 huy chương Vàng, 30 huy chương Bạc, 16 huy chương Đồng; có 02 dự án tham gia Cuộc thi Khoa học kỹ thuật cấp quốc gia dành cho học sinh trung học đạt giải Triển vọng...

 Ngoài ra còn tổ chức các sân chơi khác hoặc khuyến khích, tạo điều kiện cho học sinh đam mê tìm hiểu tri thức, khoa học tham gia các sân chơi trí tuệ, bổ ích, như: Tham gia Cuộc thi Olympic Sinh học Mỹ USABO năm 2024 đoạt Huy chương Bạc; Cuộc thi Quốc tế về Sở hữu trí tuệ, Sáng chế, Đổi mới và Công nghệ iPITEx năm 2024 đoạt Huy chương Vàng; Cuộc thi Olympic tiếng Anh trên Internet (IOE) cấp toàn quốc đoạt 222 Huy chương và nhiều cuộc thi khác đạt kết quả tốt.

Công tác khuyến học, khuyến tài tiếp tục được quan tâm. Trong năm, phối hợp tổ chức trao học bổng của Quỹ khuyến học, khuyến tài Đinh Bộ Lĩnh cho 422 em học sinh, sinh viên đạt thành tích cao trong các cuộc thi cấp quốc gia, quốc tế, thi tốt nghiệp THPT quốc gia, xét tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng, thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT... với tổng trị giá tiền thưởng gần 1,7 tỷ đồng.

7.4. Hoạt động Y tế [3]

Ngành Y tế đã bám sát và triển khai thực hiện tốt các văn bản chỉ đạo của Trung ương và của Tỉnh về công tác y tế, bảo đảm đầy đủ cơ số thuốc, trang thiết bị, máy móc phục vụ công tác phòng, chống dịch bệnh; đẩy mạnh hoạt động truyền thông về phòng, chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, mới nổi, tái nổi, các bệnh truyền nhiễm theo mùa; tăng cường giám sát các trường hợp mắc bệnh truyền nhiễm tại cộng đồng, phát hiện sớm các trường hợp bệnh truyền nhiễm, sốt xuất huyết, sởi, viêm não Nhật Bản, bệnh dại, bệnh do liên cầu lợn ở người...

Trong năm 2024, trên địa bàn toàn tỉnh đã ghi nhận 08 trường hợp mắc vi rút Adeno, 10.055 trường hợp mắc cúm, 26 trường hợp mắc lỵ amip, 02 trường hợp mắc Rubella/Rubeon, 28 trường hợp mắc ho gà, 04 trường hợp mắc sởi, 02 trường hợp sốt rét, 01 trường hợp thương hàn, 412 trường hợp thủy đậu, 183 trường hợp sốt xuất huyết. Hầu hết số trường hợp mắc các bệnh truyền nhiễm đều giảm so với năm 2023, đặc biệt bệnh sốt xuất huyết giảm nhiều, không để bùng phát dịch lớn (năm 2023 số ca mắc là 629, trong đó tử vong 02 trường hợp). Các ổ dịch đều được điều tra, xử lý theo đúng quy định, không có trường hợp nào tử vong do dịch bệnh.

Trong năm, ngành Y tế đã chú trọng đẩy mạnh tuyên truyền về đảm bảo an toàn thực phẩm nhằm nâng cao kiến thức, hiểu biết pháp luật về an toàn thực phẩm cho người dân; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra chuyên ngành và liên ngành, đặc biệt vào dịp tết Nguyên đán, mùa Lễ hội, Tháng hành động vì ATTP, tết Trung thu. Toàn tỉnh đã thành lập 331 đoàn thanh tra, kiểm tra các cấp, tiến hành kiểm tra được 5.660 lượt cơ sở, phát hiện 380 cơ sở có hành vi vi phạm, tiến hành phạt tiền 367 cơ sở, tổng số tiền phạt là 1.445 triệu đồng. Bên cạnh đó, tổ chức giám sát, kiểm thực đảm bảo an toàn thực phẩm cho 32 sự kiện lớn của tỉnh trong năm, không để xảy ra sự cố về an toàn thực phẩm tại các sự kiện.

Công tác khám chữa bệnh tiếp tục được duy trì và nâng cao chất lượng dịch vụ. Tại các cơ sở y tế công lập đã khám chữa bệnh cho 1.251,7 nghìn lượt, điều trị nội trú 188,2 nghìn lượt; khám thai cho 74,4 nghìn lượt; đặt dụng cụ tử cung cho 3.532 ca; triệt sản 110 ca.                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                

Công tác phòng chống HIV/AIDS: Tính đến ngày 15/12/2024 phát hiện mới 25 người nhiễm HIV, có 22 trường hợp tử vong do AIDS. Lũy tích số người nhiễm HIV trên địa bàn toàn tỉnh là 2.852 người, số trường hợp tử vong do AIDS là 1.384 người.

7.5. Hoạt động văn hóa, thể thao

Hoạt động văn hóa thông tin diễn ra với nhiều nội dung và hình thức phong phú, thiết thực chào mừng kỷ niệm những ngày lễ lớn của đất nước và những sự kiện trọng đại của tỉnh. Trong đó nổi bật như các sự kiện: Chào năm mới Giáp Thìn 2024; Lễ kỷ niệm 1100 năm ngày sinh Đinh Tiên Hoàng Đế và Lễ hội Hoa Lư năm 2024; Lễ kỷ niệm 10 năm Quần thể danh thắng Tràng An được Unesco ghi danh là Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới; Festival Ninh Bình lần thứ III năm 2024 với chủ đề “Dòng chảy di sản”…

Nhà hát chèo đã tổ chức 190 buổi biểu diễn nghệ thuật phục vụ nhiệm vụ chính trị, phục vụ Nhân dân; Trung tâm Văn hóa tỉnh đã thực hiện 321 buổi chiếu phim. Bảo tàng tỉnh đã đón tiếp và hướng dẫn gần 26,7 nghìn lượt khách tham quan; Thư viện tỉnh thực hiện luân chuyển gần 1.088,1 nghìn lượt sách báo, phục vụ gần 423,2 nghìn lượt người đọc.

Hoạt động thể thao: Trong năm, tiếp tục duy trì đào tạo, huấn luyện nâng cao thành tích cho vận động viên các tuyến tại Trung tâm huấn luyện thể dục thể thao cử các đoàn vận động viên tham gia thi đấu các giải, đạt được 427 huy chương các loại gồm 134 huy chương Vàng, 136 huy chương Bạc và 157 huy chương Đồng. Bên cạnh đó, Đoàn vận động viên Bóng chuyền nữ LPBank Ninh Bình tham dự Giải Vô địch Bóng chuyền các Câu lạc bộ nữ Châu Á năm 2024 tại Thái Lan xếp hạng Nhì; Đoàn vận động viên Bóng chuyền nam LPBank Ninh Bình tham gia thi đấu giai đoạn II và vòng chung kết Giải Vô địch Bóng chuyền Cúp Hóa chất Đức Giang năm 2024 tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giành vị trí thứ 4;…

Phong trào luyện tập thể dục, thể thao quần chúng tiếp tục được duy trì thường xuyên, trong năm đã tổ chức nhiều hoạt động thể thao quần chúng, thu hút đông đảo các tầng lớp Nhân dân tham gia, như: Giải chạy "Cúc Phương Jungle Paths năm 2024" với chủ đề "Chạy để bảo tồn" tại Vườn Quốc gia Cúc Phương; Giải chạy bộ Marathon "Dấu ấn Di sản 2024; Giải Bóng bàn các câu lạc bộ - Cúp Liên đoàn Bóng bàn tỉnh Ninh Bình năm 2024; Giải chạy việt dã ngành Y tế lần thứ II, năm 2024; Giải bóng đá nhi đồng Cúp Phát thanh và Truyền hình tỉnh Ninh Bình lần thứ 26, năm 2024; Giải vô địch võ thuật tỉnh Ninh Bình lần thứ nhất "Cúp Đinh Bộ Lĩnh" năm 2024; Giải bóng chuyền hơi nữ tỉnh Ninh Bình năm 2024; Giải Bơi thiếu niên, nhi đồng tỉnh Ninh Bình năm 2024; Giải bóng bàn Cúp Báo Ninh Bình lần thứ XVIII, năm 2024; Giải Cầu lông, Bóng bàn Cán bộ, CCVCLĐ Công đoàn viên chức tỉnh Ninh Bình năm 2024; Giải Cầu lông, Bóng bàn, Quần vợt Đảng bộ khối cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh Ninh Bình năm 2024; Giải Cầu lông các câu lạc bộ Cúp phát thanh - Truyền hình tỉnh lần XXVIII năm 2024; Giải thể thao cán bộ, giáo viên, nhân viên ngành Giáo dục tỉnh Ninh Bình năm 2024; Giải chạy Tràng An Marathon 2024 - Bước chạy trong lòng di sản... Ngoài ra, phối hợp tổ chức thành công nhiều giải thể thao cấp quốc gia và quốc tế như: Giải Quần vợt Vô địch đồng đội trẻ Quốc gia năm 2024; Giải Cầu lông quốc tế “FELET VietNam International Series 2024”; Giải Quần vợt quốc tế ITF U18 - J30 Ninh Bình 2 năm 2024...

7.6. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội[4]

Trong năm, lực lượng Công an tỉnh chủ động nắm và kiểm soát tốt tình
hình, huy động tối đa lực lượng, phương tiện bảo đảm an ninh trật tự, trật tự an toàn giao thông và phòng, chống cháy nổ, bảo vệ tuyệt đối an toàn các đoàn khách trong nước và khách quốc tế về dự các sự kiện quan trọng của tỉnh
, đồng thời tập trung thực hiện bảo đảm an ninh, an toàn cho Nhân dân trong các kỳ nghỉ lễ, tết; tăng cường bảo đảm trật tự an toàn giao thông, quyết liệt thực hiện nhiều giải pháp trọng tâm, góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông trên địa bàn. Bên cạnh đó, tăng cường công tác quản lý Nhà nước về an ninh trật tự, quản lý ngành nghề kinh doanh có điều kiện và kiểm soát chặt chẽ công tác quản lý xuất nhập cảnh.

Tính từ ngày 15/11/2024 đến ngày 14/12/2024 toàn tỉnh đã xảy ra 22 vụ tai nạn giao thông làm chết 14 người, bị thương 10 người; đã xảy ra 56 vụ phạm pháp hình sự với 214 đối tượng; phát hiện 03 vụ buôn bán, vận chuyển, tàng trữ ma tuý với 12 đối tượng; xảy ra 02 vụ cháy không có thương vong về người, thiệt hại ước tính 2 triệu đồng.

Tính chung lại, từ 15/12/2023 đến ngày 14/12/2024 trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 194 vụ tai nạn giao thông làm chết 105 người, bị thương 132 người (đường bộ xảy ra 191 vụ làm chết 104 người, bị thương 130 người; đường sắt xảy ra 03 vụ làm chết 01 người, bị thương 02 người); đã xảy ra 408 vụ phạm pháp hình sự; phát hiện 285 vụ buôn bán, vận chuyển, tàng trữ ma tuý với 351 đối tượng; xảy ra 04 vụ cháy không có thương vong về người, gây thiệt hại tài sản ước tính 97 triệu đồng.

7.7. Tình hình thiên tai

Trong năm 2024, do ảnh hưởng hoàn lưu của bão số 03 (Yagi) và 02 đợt mưa lớn diện rộng, trên địa bàn toàn tỉnh có 4.937 ngôi nhà bị hư hại (trong đó có 01 ngôi nhà thiệt hại rất nặng 50%-70%, 05 ngôi nhà thiệt hại 1 phần dưới 30% và 4.931 ngôi nhà bị ngập nước); 6.649,4 ha lúa và 410,5 ha hoa mầu bị thiệt hại; 255 con gia súc bị chết và cuốn trôi; 6.207 con gia cầm bị chết và cuốn trôi; có khoảng trên 3.000 ha ao nuôi cá truyền thống, 26 ha diện tích nuôi cá da trơn và 133 ha nuôi tôm bị thiệt hại; có khoảng 2,75 km đê cấp III trở lên và 3,2 km đê cấp IV trở xuống bị sạt, nứt và xuất hiện mạch đùn mạch sủi; trên 5,5 km kênh bị hư hỏng;… Tổng giá trị thiệt hại ước tính gần 395,2 tỷ đồng./.

 



[1] Số liệu về tốc độ tăng trưởng GRDP và cơ cấu kinh tế do TCTK tính toán và công bố ngày 02/12/2024.

[2] Theo số liệu của Sở Giáo dục và Đào tạo.

[3] Theo số liệu của Sở Y tế

[4] Theo số liệu của Công an Tỉnh





CÁC BÀI KHÁC


347927

17
32
347927