Hôm nay, thứ 4 07/05/2025
Tìm kiếm:  

THÔNG TIN THỐNG KÊ THÁNG


 Tình hình kinh tế - xã hội tháng Ba và quý I năm 2025

 

 

Các hoạt động kinh tế - xã hội quý I năm 2025 diễn ra trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu... đã làm gia tăng rủi ro đối với an ninh hàng hải, chuỗi cung ứng hàng hóa, thị trường tài chính, tiền tệ; khả năng xảy ra chiến tranh thương mại trên thế giới có thể sẽ làm đứt gãy các chuỗi cung ứng, thu hẹp thị trường xuất khẩu. Ở trong nước và các địa phương vừa phải tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy, vừa phải tập trung thực hiện để đạt kết quả cao nhất các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của năm 2025.

Trên địa bàn tỉnh, các hoạt động kinh tế - xã hội tiếp đà phục hồi nhưng cũng gặp không ít khó khăn do tác động của tình hình kinh tế thế giới và trong nước. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành, các địa phương tăng cường công tác dự báo, triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp duy trì phát triển sản xuất. Các ngành, lĩnh vực kinh tế tiếp tục chuyển biến tích cực và đạt nhiều kết quả quan trọng. Trong đó, sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định, ít phát sinh dịch bệnh; công nghiệp tiếp tục duy trì đà tăng trưởng và các ngành dịch vụ phát triển mạnh. Công tác an sinh xã hội được đảm bảo. Dưới đây là một số kết quả đã đạt được:

1. Các chỉ tiêu tổng hợp[1]

1.1. Tăng trưởng kinh tế

Tổng sản phẩm xã hội (GRDP) trên địa bàn toàn tỉnh quý I năm 2025 (theo giá so sánh 2010) ước tính đạt 13.754,1 tỷ đồng, tăng 9,06 % so với quý I năm 2024, xếp thứ 14/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và xếp thứ 06/11 tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Hồng. Trong đó, giá trị tăng thêm khu vực I (nông, lâm nghiệp và thủy sản) đạt 957,4 tỷ đồng, tăng 3,69% đóng góp 0,27 điểm phần trăm vào tốc độ tăng GRDP của toàn nền kinh tế; khu vực II (công nghiệp - xây dựng) đạt 4.496,8 tỷ đồng, tăng 6,95% đóng góp 2,32 điểm phần trăm (riêng công nghiệp ước đạt 3.534,2 tỷ đồng, tăng 5,83% đóng góp 1,54 điểm phần trăm); khu vực III (dịch vụ) đạt 6.043,7 tỷ đồng, tăng 12,79% đóng góp 5,43 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 2.256,2 tỷ đồng, tăng 6,15% đóng góp 1,04 điểm phần trăm.

 1.2. Cơ cấu kinh tế

Với định hướng phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các ngành dịch vụ. Tổng sản phẩm xã hội (GRDP) trên địa bàn toàn tỉnh quý I năm nay (theo giá hiện hành) ước tính đạt 24.382,2 tỷ đồng. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 1.747,7 tỷ đồng, chiếm 7,2%; khu vực công nghiệp - xây dựng đạt 7.635,5 tỷ đồng chiếm 31,3% (riêng công nghiệp ước đạt 6.078,1 tỷ đồng, chiếm 24,9%); khu vực dịch vụ đạt 11.177,1 tỷ đồng, chiếm 45,8%; thuế sản phẩm (trừ trợ cấp sản phẩm) 3.821,9 tỷ đồng, chiếm 15,7%.

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Quý I năm 2025, các địa phương trong tỉnh đã tập trung thu hoạch nhanh gọn cây vụ Đông, nhất là với diện tích canh tác trên đất lúa, tạo quỹ đất để triển khai sản xuất vụ Xuân theo đúng tiến độ; công tác phòng chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm đạt hiệu quả; công tác trồng rừng, chăm sóc, bảo vệ và phòng chống cháy rừng tiếp tục được quan tâm; sản xuất thủy sản phát triển tốt, không có dịch bệnh xảy ra.

2.1. Nông nghiệp

2.1.1. Trồng trọt

Sản xuất vụ Đông: Vụ Đông năm nay, các cấp, các ngành chỉ đạo bà con nông dân tiếp tục chuyển đổi cơ cấu cây trồng, thâm canh tăng vụ, đảm bảo kế hoạch diện tích gieo trồng và nâng cao thu nhập cho người dân.

Diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Đông năm 2024 - 2025 trên địa bàn toàn tỉnh đạt 7.504 ha, giảm 2,0% (- 155 ha) so với cùng vụ năm trước và đạt 100,1% Kế hoạch diện tích gieo trồng cây vụ Đông của tỉnh. Kết quả sản xuất một số cây trồng chủ yếu trong vụ như sau:

Cây ngô: Diện tích gieo trồng đạt 1.398 ha, giảm 9,5% (- 147 ha); năng suất đạt 41,7 tạ/ha, tăng 1,2% (+ 0,5 tạ/ha); sản lượng đạt 5.833 tấn, giảm 8,3%         (- 530 tấn).

Cây khoai lang: Diện tích gieo trồng đạt 310 ha, tăng 8,8% (+ 25 ha); năng suất đạt 108,2 tạ/ha, tăng 0,4% (+ 0,4 tạ/ha); sản lượng đạt 3.352 tấn, tăng 9,1% (+ 279 tấn).

Cây đậu tương: Diện tích gieo trồng đạt 96 ha, tăng 24,7% (+ 19 ha); năng suất đạt 15,8 tạ/ha, tăng 3,9% (+ 0,6 tạ/ha); sản lượng đạt 152 tấn, tăng 29,9%     (+ 35 tấn).

Cây lạc: Diện tích gieo trồng đạt 193 ha, giảm 0,5% (- 1 ha); năng suất đạt 26,5 tạ/ha, tăng 1,5% (+ 0,4 tạ/ha); sản lượng đạt 512 tấn, tăng 1,4% (+ 7 tấn).

Rau các loại: Diện tích gieo trồng đạt 4,5 nghìn ha, giảm 1,9% (- 86 ha); năng suất đạt 220,2 tạ/ha, tăng 0,4% (+ 0,8 tạ/ha); sản lượng đạt 99,0 nghìn tấn, giảm 1,5% (- 1,5 nghìn tấn) so với cùng vụ năm trước.

Sản xuất vụ Xuân: Đầu vụ, thời tiết tương đối thuận lợi, nền nhiệt năm nay cao hơn năm trước do những đợt rét đậm, rét hại xuất hiện ít hơn, do vậy tiến độ gieo trồng đối với các loại cây trồng vụ Xuân nói chung và cây lúa nói riêng được đẩy nhanh, bảo đảm trong khung thời vụ theo kế hoạch.

Hiện nay, thời tiết ấm áp, thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng và phát triển; sâu bệnh xuất hiện rải rác, mức độ hại nhẹ. Bà con nông dân tiếp tục triển khai trồng màu vụ Xuân, đến ngày 26/3/2025, diện tích gieo trồng cây hằng năm vụ Xuân ước đạt gần 45,7 nghìn ha, trong đó lúa đạt 39,3 nghìn ha; ngô đạt 1,4 nghìn ha; khoai lang đạt 0,2 nghìn ha; lạc đạt 1,7 nghìn ha; rau, đậu và các loại cây màu khác đạt 3,1 nghìn ha. Đến nay, 100% diện tích lúa đã được chăm sóc đợt 1, trong đó 32,8 nghìn ha lúa được chăm sóc đợt 2.

Cây lâu năm: Sản lượng cây ăn quả thu hoạch trong quý I năm 2025 ước tính đạt 24,3 nghìn tấn, tăng 1,5% (+ 0,4 nghìn tấn) so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng sản lượng do diện tích các loại cây lâu năm tương đối ổn định, thích ứng với điều kiện của thời tiết, phù hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng; sâu bệnh ít xuất hiện nên năng suất các loại cây ăn quả ước tính cao hơn năm trước. Sản lượng một số cây ăn quả chủ yếu trong quý I tăng so với cùng kỳ năm trước như: Dứa ước đạt 17,7 nghìn tấn, tăng 1,1%; chuối ước đạt 5,8 nghìn tấn, tăng 2,5%;....

2.1.2. Chăn nuôi

Trong tháng, hoạt động chăn nuôi diễn ra thuận lợi, giá cả ổn định đảm bảo nguồn cung thực phẩm dồi dào đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Tại thời điểm báo cáo, đàn trâu ước đạt 12,8 nghìn con, tăng 0,2% so với cùng thời điểm năm trước; đàn bò ước đạt 35,2 nghìn con, tăng 1,7%; đàn lợn ước đạt 225,3 nghìn con, tăng 2,5%; đàn gia cầm ước đạt trên 6,7 triệu con, tăng 4,9%; trong đó đàn gà ước đạt 4,6 triệu con, tăng 3,9%.

Trong quý I năm 2025, dịch bệnh trên đàn vật nuôi được kiểm soát tốt, đến nay dịch tả lợn Châu Phi đã được khống chế hoàn toàn. Lũy kế từ đầu năm đến nay số lợn đã tiêu hủy do dịch tả lợn Châu Phi là 104 con, tổng trọng lượng tiêu hủy là 4,8 nghìn tấn.

Sản lượng thịt hơi xuất chuồng trong quý I ước đạt trên 18,9 nghìn tấn, tăng 6,0% (+ 1,1 nghìn tấn) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng ước đạt 0,3 nghìn tấn, tăng 0,3%; thịt bò hơi ước đạt 0,9 nghìn tấn, tăng 3,1%; thịt lợn hơi ước đạt 12,9 nghìn tấn, tăng 6,5%; thịt gia cầm hơi ước đạt 4,3 nghìn tấn, tăng 5,6%. Sản lượng trứng gia cầm ước đạt gần 45,1 triệu quả, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước.

2.2. Lâm nghiệp

          Thực hiện Chỉ thị số 9892/CT-BNN-LN ngày 26/12/2024 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về tổ chức phong trào “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ” nhân dịp xuân Ất Tỵ và tăng cường công tác quản lý, bảo vệ, phát triển rừng năm 2025; Chỉ thị số 20-CT/TU ngày 10/10/2024 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Ninh Bình về tăng cường công tác trồng, chăm sóc và bảo vệ cây xanh trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, UBND tỉnh Ninh Bình ban hành Kế hoạch số 05/KH-UBND ngày 06/01/2025 tổ chức Lễ phát động “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ” xuân Ất Tỵ năm 2025. Sáng ngày 31/01/2025 (tức ngày 03 tháng Giêng năm Ất Tỵ), lễ phát động tết trồng cây trên địa bàn tỉnh được thực hiện tại 07 điểm; số cây trồng trong ngày đầu Lễ phát động “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ” xuân Ất Tỵ94,1 nghìn cây trong đó tại các điểm phát động là trên 0,8 nghìn cây, số lượng cây trồng trên địa bàn toàn tỉnh trong ngày phát động trồng cây đầu xuân là gần 93,3 nghìn cây, bao gồm các loại cây như: Xoài, Vàng anh, Ban, Sấu, Bằng lăng, Giổi xanh, Keo, Kim giao, Xà cừ, Long não, Sao Đen, Xà Cừ, cây Lát...

Trong tháng, diện tích trồng rừng mới tập trung ước đạt 28,2 ha, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 2,4 nghìn m3, tăng 0,1%; số cây lâm nghiệp trồng phân tán là 92,0 nghìn cây, tăng 2,8%. Tính chung lại, trong quý I năm 2025, diện tích rừng mới tập trung ước đạt 38,5 ha, tăng 1,0% so với quý I năm 2024; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 6,7 nghìn m3, tăng 1,5%; số cây lâm nghiệp trồng phân tán là 291,0 nghìn cây, tăng 3,1%.

Công tác phòng, chống cháy rừng, quản lý bảo vệ rừng vẫn được kiểm soát, chỉ đạo chặt chẽ. Tuy vậy, trong quý I/2025 trên địa bàn tỉnh Ninh Bình vẫn xảy ra 01 vụ cháy rừng tại núi Lổ, thôn Trường An, xã Trường Yên, thành phố Hoa Lư với diện tích rừng bị cháy là 0,48 ha.

2.3. Thuỷ sản

Trong quý I/2025, các cơ sở nuôi thủy sản tập trung thu hoạch diện tích nuôi cá ruộng để thực hiện công tác gieo cấy lúa vụ Đông Xuân, đồng thời thu hoạch sản phẩm trên những ao nuôi đạt kích cỡ thương phẩm để cung cấp cho thị trường. Tại vùng nước lợ huyện Kim Sơn, các hộ kinh doanh giống chuẩn bị cơ sở vật chất, nhập tôm giống về ươm phục vụ việc nuôi thả. Các trại sản xuất giống ngao, hàu tiếp tục cho sinh sản để cung cấp kịp thời nhu cầu của thị trường.

Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng Ba ước đạt 4,6 nghìn tấn, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước, chia ra sản lượng cá ước đạt 2,4 nghìn tấn, tăng 5,2%; tôm ước đạt 0,2 nghìn tấn, tăng 8,8%; thủy sản khác ước đạt 2,0 nghìn tấn, tăng 4,9%; sản lượng thủy sản khai thác biển trong tháng ước đạt 167,1 tấn (+ 5,1%). Tính chung lại, sản lượng thủy sản toàn tỉnh quý I ước đạt 16,5 nghìn tấn, tăng 5,1%, chia ra sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 14,6 nghìn, tăng 4,4%, sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 1,9 nghìn tấn, tăng 10,2%.

3. Sản xuất công nghiệp

Tình hình sản xuất công nghiệp quý I trên địa bàn tiếp tục duy trì đà tăng trưởng nhưng vẫn còn không ít khó khăn về thị trường tiêu thụ, tình trạng thiếu hụt nguồn lao động, nhất là lao động tay nghề cao.

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) toàn tỉnh tháng Ba ước tính tăng 9,96% so với tháng trước. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 6,45%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,27%; sản xuất và phân phối điện tăng 8,71%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 21,97%.

So với cùng tháng năm trước (tháng 3/2024), chỉ số IIP toàn tỉnh tăng 11,77%. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 11,54%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14,79%; sản xuất và phân phối điện giảm 50,63%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 12,83%.

Tính chung quý I năm 2025, chỉ số IIP toàn tỉnh tăng 10,42%. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 9,26%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 12,80%; sản xuất và phân phối điện giảm 44,91%;  cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,01%.

Giá trị sản xuất: Tính theo giá so sánh 2010, giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh tháng Ba ước đạt 8.442,4 tỷ đồng, tăng 10,0% so với tháng 3/2024. Trong đó: Khai khoáng ước đạt 80,9 tỷ đồng, tăng 12,7%; công nghiệp chế biến, chế tạo 8.303,0 tỷ đồng, tăng 10,8%; sản xuất và phân phối điện 44,6 tỷ đồng, giảm 51,4%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 13,9 tỷ đồng, giảm 6,9%. Tính chung lại, giá trị sản xuất công nghiệp 3 tháng đầu năm 2025 toàn tỉnh ước đạt 24.257,7 tỷ đồng, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Khai khoáng ước đạt 265,1 tỷ đồng, tăng 12,6%; công nghiệp chế biến, chế tạo 23.800,9 tỷ đồng, tăng 9,2%; sản xuất và phân phối điện 140,5 tỷ đồng, giảm 45,0%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 51,2 tỷ đồng, tăng 0,3%.

Sản phẩm công nghiệp chủ yếu: Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu ước thực hiện tháng Ba năm 2025 tăng khá so với cùng kỳ như: Đá các loại 0,4 nghìn m3, tăng 9,8%; ngô ngọt đóng hộp 0,3 nghìn tấn, tăng 14,5%; dứa đóng hộp 0,6 nghìn tấn, tăng 16,2%; nước khoáng không có ga 0,3 triệu lít, tăng 11,5%; hàng thêu 99,3 nghìn m2, gấp 2,9 lần; quần áo các loại 5,5 triệu cái, tăng 14,7%; phân Ure 48,5 nghìn tấn, tăng 54,0%; phân lân nung chảy 25,2 nghìn tấn, tăng 80,0%; xi măng (kể cả clanke) 0,6 triệu tấn, tăng 22,0%; thanh nhôm, que nhôm, nhôm ở dạng hình 4,9 nghìn tấn, tăng 25,6%; cấu kiện nhà lắp sẵn bằng kim loại 4,8 tấn, gấp 3,0 lần; modul camera 19,8 triệu cái, tăng 28,6%; xe ô tô chở hàng hóa 0,8 nghìn chiếc, tăng 21,1%; cần gạt nước ô tô 0,5 triệu cái, tăng 15,3%; điện thương phẩm 0,2 tỷ Kwh, tăng 9,5%;... Bên cạnh đó cũng có một số sản phẩm có mức sản xuất giảm sút như: Giày dép các loại 5,2 triệu đôi, giảm 6,5%; phân NPK 10,5 nghìn tấn, giảm 10,3%; thép cán các loại 21,9 nghìn tấn, giảm 28,4%; linh kiện điện tử 8,5 triệu cái, giảm 15,8%; ghế ngồi dùng cho xe có động cơ 18,3 nghìn chiếc, giảm 3,2%; búp bê 14,0 triệu con, giảm 17,9%; đồ chơi hình con vật 1,5 triệu con, giảm 27,2%; điện sản xuất 19,1 triệu Kwh, giảm 76,8%; nước máy thương phẩm 2,0 triệu m3, giảm 14,7%;...

Tính chung quý I năm 2025, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có mức tăng cao so với cùng kỳ là: Ngô ngọt đóng hộp 0,9 nghìn tấn, tăng 17,4%; dứa đóng hộp 2,5 nghìn tấn, tăng 39,9%; nước dứa tươi 1,4 triệu lít, tăng 13,6%; quần áo các loại 16,2 triệu cái, tăng 12,4%; phân Ure 0,1 triệu tấn, tăng 14,5%; phân NPK 29,6 nghìn tấn, tăng 23,8%; phân lân nung chảy 68,4 nghìn tấn, tăng 30,8%; xi măng và clanke 1,5 triệu tấn, tăng 16,0%; thanh nhôm, que nhôm, nhôm ở dạng hình 11,3 nghìn tấn, tăng 34,5%; cấu kiện nhà lắp sẵn bằng kim loại 25,8 tấn, tăng 19,4%; modul camera 54,2 triệu tấn, tăng 11,5%; xe ô tô 5 chỗ ngồi trở lên 11,7 nghìn cái, tăng 15,4%; xe ô tô chở hàng 2,6 nghìn chiếc, tăng 53,2%; búp bê 44,3 triệu con, tăng 13,2%; điện thương phẩm 0,6 tỷ Kwh, tăng 10,1%;… Tuy nhiên, một số sản phẩm lại có mức sản xuất giảm như: Kính nổi 96,0 nghìn tấn, giảm 2,5%; thép cán các loại 68,4 nghìn tấn, giảm 8,2%; linh kiện điện tử 24,2 triệu cái, giảm 8,7%; tai nghe điện thoại di động 10,5 nghìn cái, giảm 93,3%; kính máy ảnh 0,2 triệu cái, giảm 74,1%; cần gạt nước ô tô 1,5 triệu cái, giảm 2,3%; đồ chơi hình con vật 4,5 triệu con, giảm 28,6%; điện sản xuất 57,6 triệu Kwh, giảm 72,5%;..

Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng Ba tăng 15,87% so với tháng trước và tăng 14,21% so với cùng tháng năm trước. Tính chung quý I/2025, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 15,59% so với cùng kỳ. So với quý I/2024, các ngành công nghiệp có chỉ số tiêu thụ tăng cao: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 16,54%; dệt tăng 4,65%; sản xuất trang phục tăng 3,11%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy gấp 4,1 lần; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 11,95%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 9,07%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 19,29%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 10,62%; sản xuất xe có động cơ tăng 34,50%;...

4. Vốn đầu tư thực hiện

Tổng số vốn đầu tư thực hiện tháng Ba năm 2025 toàn tỉnh ước đạt 2.701,8 tỷ đồng, tăng 3,0% so với cùng tháng năm trước. Trong đó: Vốn Nhà nước đạt 657,5 tỷ đồng, tăng 8,2%; vốn ngoài Nhà nước đạt 1.842,0 tỷ đồng, tăng 11,2%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 202,3 tỷ đồng, giảm 43,9%.

Tính chung lại, tổng vốn đầu tư thực hiện quý I năm 2025 toàn tỉnh ước đạt 7.878,8 tỷ đồng, tăng 8,0% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó: Vốn Nhà nước đạt 1.982,7 tỷ đồng, tăng 38,1%; vốn ngoài Nhà nước đạt 5.359,1 tỷ đồng, tăng 9,4%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 537,0 tỷ đồng, giảm 44,0%.

Một số dự án, công trình có khối lượng vốn đầu tư thực hiện lớn trong quý I năm 2025 là:

Khu vực đầu tư công: Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Ninh Bình – Hải Phòng đoạn qua tỉnh Ninh Bình ước đạt 215,1 tỷ đồng; dự án xây dựng CSHT khu du lịch sinh thái Tràng An và các dự án thành phần ước đạt 126,6 tỷ đồng; xây dựng tuyến đường Đông – Tây, tỉnh Ninh Bình (giai đoạn 1) ước đạt 80,0 tỷ đồng; dự án xây dựng Trường Đại học Hoa Lư (giai đoạn 2) ước đạt 65,5 tỷ đồng;…

Khu vực sử dụng vốn ODA: Dự án cải thiện cơ sở hạ tầng đô thị nhằm giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu cho 04 tỉnh ven biển Bắc Trung Bộ - Tiểu dự án cải thiện cơ sở hạ tầng đô thị Phát Diệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình ước đạt 47,3 tỷ đồng.

Khu vực doanh nghiệp Nhà nước: Các dự án xây dựng, sửa chữa công trình điện, mua sắm máy móc thiết bị của Công ty TNHH MTV Điện lực Ninh Bình ước đạt 29,3 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc thiết bị và sửa chữa, nâng cấp tài sản cố định của Công ty cổ phần nhiệt điện Ninh Bình ước đạt 2,8 tỷ đồng;…

Khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước: Dự án xây dựng cở sở hạ tầng Cụm công nghiệp Khánh Lợi I của Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển hạ tầng Bảo Minh - Khánh Hồng ước đạt 82 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất xi măng của Công ty Cổ phần Vissai Ninh Bình ước đạt 32 tỷ đồng; dự án xây dựng sân golf 54 lỗ hồ Yên Thắng của Công ty Cổ phần đầu tư PV – Inconess ước đạt 20,5 tỷ đồng; dự án mua tàu chở dầu của Công ty TNHH Hoàng Hà ước đạt 20,4 tỷ đồng;…

Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: Dự án mua tài sản, lắp đặt máy móc thiết bị phục vụ sản xuất camera module của Công ty TNHH MCNEX Vina ước đạt 160 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà máy và lắp đặt máy móc thiết bị phục vụ sản xuất các sản phẩm từ da của Công ty TNHH Simona Leather ước đạt 77 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất của Công ty TNHH đầu tư và phát triển Adora Việt Nam ước đạt 50 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc thiết bị trong nhà xưởng phục vụ sản xuất giày của Công ty TNHH giầy Athena Việt Nam ước đạt 35 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất giày của Công ty TNHH sản xuất giày Chung Jye Ninh Bình – Việt Nam ước đạt 30,6 tỷ đồng;...

5. Thương mại, dịch vụ và giá cả

5.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Hoạt động thương mại và dịch vụ trên địa bàn tỉnh trong tháng Ba và quý I năm nay tiếp tục diễn ra sôi động, duy trì tốc độ tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước. 

Doanh thu bán lẻ hàng hóa trong tháng Ba ước đạt gần 7.455,1 tỷ đồng, tăng 26,7% so với tháng 3/2024. Tính chung lại cả quý I năm 2025, doanh thu bán lẻ hàng hoá toàn tỉnh đạt gần 25.117,9 tỷ đồng, tăng 23,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó các nhóm có tốc độ tăng cao là: Vật phẩm văn hoá, giáo dục ước đạt 203,0 tỷ đồng, tăng 26,6%; gỗ và vật liệu xây dựng 4.227,9 tỷ đồng, 31,3%; ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) 3.527,4 tỷ đồng, tăng 34,1%; phương tiện đi lại (trừ ô tô con, kể cả phụ tùng) 336,4 tỷ đồng, tăng 37,7%; xăng, dầu các loại 2.188,3 tỷ đồng, tăng 22,3%; nhiên liệu khác (trừ xăng, dầu) 244,3 tỷ đồng, tăng 22,3%; doanh thu sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 1.041,4 tỷ đồng, tăng 22,7%; hàng hoá khác 635,1 tỷ đồng, tăng 30,4%...

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống toàn tỉnh trong tháng Ba ước đạt 1.062,4 tỷ đồng, tăng 36,7% so với tháng 3/2024. Trong quý I, ước đạt 2.946,3 tỷ đồng, tăng 29,0%.

Doanh thu dịch vụ lữ hành trong tháng ước đạt 6,4 tỷ đồng, giảm 39,4%; tính chung trong quý I ước đạt 18,1 tỷ đồng, giảm 34,9%.

Doanh thu một số ngành dịch vụ khác trong tháng ước đạt 721,3 tỷ đồng, tăng 44,0%, trong quý I/2025 ước đạt 2.021,4 tỷ đồng, tăng 34,2%.

5.2. Chỉ số giá

Chỉ số giá tiêu dùng: Chỉ số giá tiêu dùng hàng hóa và và dịch vụ (CPI) trên địa bàn tỉnh trong tháng Ba tiếp tục duy trì đà tăng, tuy nhiên mức tăng đã giảm so với hai tháng đầu năm. So với tháng trước CPI tăng 0,1%; so với tháng 12 năm trước CPI tăng 1,72% và so với tháng 03/2024 CPI tăng 3,59%. Bình quân quý I năm 2025, CPI tăng 3,71% so với cùng kỳ.

 So với tháng trước, giá hàng hóa và dịch vụ trên địa bàn tỉnh diễn biến tương đối ổn định, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có 06 nhóm có chỉ số giá tăng, 03 nhóm giữ chỉ số ổn định và 02 nhóm có chỉ số giá giảm. Sáu nhóm có chỉ số giá tăng gồm: Nhà ở điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng cao nhất 1,39% do chủ các cơ sở đã sửa chữa lại nhà ở cho thuê vì vậy giá nhà ở thuê tăng, mặt khác giá nguyên liệu đầu vào như xi măng, sắt, thép, tăng lên làm cho giá nhà ở thuê và nhà chủ sở hữu tính quy đổi trong tháng tăng 3,67%, giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,66%, giá dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 1,85%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,16% do giá quần áo may sẵn tăng 0,2%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,1%; ba nhóm thuốc và dịch vụ y tế; văn hóa, giải trí và du lịch và hàng hóa và dịch vụ khác cùng có chỉ số giá tăng 0,03%. Hai nhóm có chỉ số giá giảm là: Giao thông giảm 1,78% do giá xăng, dầu được điều chỉnh giảm trong tháng (giá xăng giảm 4,5%, giá dầu diezel giảm 4,88%); bưu chính viễn thông giảm 0,64%. Ba nhóm giữ chỉ số giá ổn định là: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống (trong đó: Lương thực giảm 1,28%; thực phẩm tăng 0,18% và ăn uống ngoài gia đình tăng 0,05%); nhóm đồ uống và thuốc lá và nhóm giáo dục.

CPI bình quân quý I năm nay tăng 3,71% so với quý I năm 2024. Có đến 08/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm: Thuốc và dịch vụ y tế tăng 11,84%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 6,92%; đồ uống và thuốc lá tăng 4,92%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 4,59% (lương thực tăng 4,19%; thực phẩm tăng 6,16%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,69%); may mặc, mũ nón và giày dép tăng 4,44%; nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 4,19%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 2,17%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 2,16%. Ba nhóm còn lại có chỉ số giá giảm là: Giao thông giảm 3,36%; bưu chính viễn thông giảm 0,12%; giáo dục giảm 0,09%.

CPI quý I năm 2025 tăng so với cùng kỳ năm trước do một số nguyên nhân chủ yếu sau:

- Giá thịt lợn tăng cao 23,3%, thịt chế biến tăng 11,07% khi nguồn cung lợn hơi bị thiếu hụt.

- Giá dịch vụ y tế tăng 15,87% theo Nghị quyết số 109/NQ-HĐND ngày 04/12/2024 của Hội đồng Nhân dân tỉnh quy định giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh thuộc danh mục do quỹ bảo hiểm y tế thanh toán; giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh do ngân sách Nhà nước thanh toán; giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh không thuộc danh mục do quỹ bảo hiểm y tế thanh toán mà không phải là dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh theo yêu cầu áp dụng tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước thuộc phạm vi quản lý của tỉnh Ninh Bình.

- Mức đóng bảo hiểm y tế tăng theo mức lương cơ sở được quy định tại Nghị định 73/2024/NĐ-CP ngày 30/6/2024 của Chính phủ quy định mức lương cơ sở và chế độ tiền thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, theo đó mức đóng bảo hiểm y tế đã tăng 30,0%.

- Giá điện sinh hoạt bình quân tăng 5,62% do Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân từ ngày 11/10/2024.

Bên cạnh đó, vẫn có những yếu tố góp phần kiềm chế tốc độ tăng CPI: Giá xăng giảm 10,04%, giá dầu diezel giảm 7,79% tác động làm nhóm nhiên liệu giảm 9,74%; giá sách giáo khoa giảm 3,22%; thiết bị điện thoại giảm 0,57%.

Chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ: Chỉ số giá vàng tháng Ba tăng 5,3% so với tháng trước, tăng 11,73% so với tháng 12/2024 và tăng 37,17% so với cùng tháng năm 2024. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng này tăng 0,04% so với tháng 02/2025, tăng 0,2% so với tháng 12 năm trước và tăng 3,8% so với tháng 3/2024. Bình quân quý I năm 2025, chỉ số giá vàng tăng 38,72%, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 4,6%.

5.3. Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Tiếp đà phục hồi và tăng trưởng của năm 2024, quý I năm 2025, hoạt động xuất, nhập khẩu trên địa bàn tỉnh tiếp tục tăng trưởng khá, tuy nhiên vẫn đối diện với nhiều rủi ro, khó đoán định, nguyên nhân là khủng hoảng tại Trung Đông đang làm cho vận tải hàng hóa trên thế giới và của Việt Nam bị ảnh hưởng, bên cạnh đó, xu hướng bảo hộ thương mại xuất hiện nhiều hơn, nhiều nước có các biện pháp đưa đầu tư về trong nước, dựng nên các rào cản thương mại, các thị trường phát triển như EU chú trọng đến phát triển bền vững, hiện đã và đang đưa ra nhiều quy định mới đã tác động đến một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta.

 Xuất khẩu: Tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa toàn tỉnh trong tháng Ba ước thực hiện 294,2 triệu USD, tăng 0,8% so với tháng Ba năm 2024.

Trong 3 tháng đầu năm 2025, tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa ước đạt trên 849,8 triệu USD,  tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn là: Camera và linh kiện ước đạt 233,3 triệu USD; giày dép các loại 191,7 triệu USD; xi măng và clanke 159,9 triệu USD; quần áo các loại 72,3 triệu USD; linh kiện phụ tùng ô tô các loại 40,6 triệu USD; linh kiện điện tử 32,5 triệu USD;...

Ba tháng đầu năm nay, một số mặt hàng có mức xuất khẩu tăng khá so với cùng kỳ như: Dứa, dưa chuột đóng hộp 2,4 nghìn tấn, tăng 46,1%; nước dứa cô đặc 855,0 tấn, gấp 4,4 lần; sản phẩm cói khác 348,1 nghìn sản phẩm, tăng 33,8%; hàng thêu ren 70,5 nghìn chiếc, gấp 1,9 lần; xi măng, clanke  4,3 triệu tấn, tăng 20,2%; camera và linh kiện 59,5 triệu sản phẩm, tăng 26,6%; phân ure 45,7 nghìn tấn, gấp 3,2 lần; linh kiện phụ tùng ô tô các loại 40,6 triệu USD, tăng 42,3%;... Tuy nhiên một số mặt hàng xuất khẩu lại giảm sút so với cùng kỳ như: Quần áo các loại 11,5 triệu chiếc, giảm 20,0%; thảm cói 3,9 nghìn m2, giảm 74,6%; giày dép các loại 13,0 triệu đôi, giảm 11,4%; kính quang học 291,5 nghìn chiếc, giảm 64,6%; phôi nhôm 4,4 nghìn tấn, giảm 18,0%; đồ chơi trẻ em 3,3 triệu chiếc, giảm 22,5%; linh kiện điện tử 32,6 triệu USD, giảm 4,8%.

Nhập khẩu: Tổng giá trị nhập khẩu hàng hóa trong tháng Ba ước thực hiện trên 264,4 triệu USD, tăng 10,2% so với cùng tháng năm 2024.

Tính chung lại, 3 tháng đầu năm nay tổng giá trị nhập khẩu hàng hóa ước đạt trên 784,7 triệu USD, tăng 8,0% so với cùng kỳ năm trước. Trị giá các nhóm mặt hàng nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn là: Linh kiện điện tử gần 248,4 triệu USD; linh kiện phụ tùng ô tô các loại 233,0 triệu USD; phụ liệu sản xuất giày, dép 125,2 triệu USD; vải may mặc các loại 28,1 triệu USD; máy móc thiết bị 17,6 triệu USD; ô tô 15,4 triệu USD.

5.4. Vận tải hành khách và hàng hóa

          Vận tải hành khách: Ước thực hiện trong tháng Ba đạt 5,5 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 20,1% so với tháng 3/2024 và luân chuyển 248,8 triệu lượt khách.km, tăng 18,4%. Tính chung quý I năm nay, khối lượng hành khách vận chuyển thực hiện toàn tỉnh ước đạt 18,6 triệu lượt khách, tăng 29,6% và luân chuyển 828,9 triệu lượt khách.km, tăng 26,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vận tải đường bộ ước đạt 14,2 triệu lượt khách, tăng 26,4% và 811,4 triệu lượt khách.km, tăng 26,1%; vận tải đường thủy nội địa 4,4 triệu lượt khách, tăng 40,9% và 17,5 triệu lượt khách.km, tăng 43,4%.

Vận tải hàng hóa: Trong tháng Ba, khối lượng hàng hóa vận chuyển toàn tỉnh ước thực hiện 15,7 triệu tấn, tăng 16,4% so với tháng 3/2024 và luân chuyển 1.951,5 triệu tấn.km, tăng 15,6%. Tính chung cả quý I, khối lượng hàng hoá vận chuyển toàn tỉnh đạt 55,2 triệu tấn, tăng 22,0% và luân chuyển 7.194,3 triệu tấn.km, tăng 23,0% so với quý I năm 2024. Trong đó: Vận tải đường bộ ước đạt 21,1 triệu tấn, tăng 23,8% và  892,7 triệu tấn.km, tăng 25,1%; vận tải đường thủy nội địa 30,0 triệu tấn, tăng 19,5% và 4.089,8 triệu tấn.km, tăng 18,0%; vận tải biển 4,1 triệu tấn, tăng 32,0% và 2.211,8 triệu tấn.km, tăng 32,6%.

Doanh thu vận tải: Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải toàn tỉnh thực hiện trong tháng ước đạt 1.897,7 tỷ đồng, tăng 19,0% so với cùng tháng năm trước. Tính chung quý I, doanh hoạt động vận tải ước đạt 6.722,4 tỷ đồng, tăng 25,9% so với quý I/2024. Trong đó phân theo loại hình vận tải: Vận tải hành khách ước đạt 831,6 tỷ đồng, tăng 25,8%; vận tải hàng hóa 5.315,1 tỷ đồng, tăng 27,9%; hoạt động dịch vụ hỗ trợ vận tải 535,7 tỷ đồng, tăng 9,6%; bưu chính chuyển phát 40,0 tỷ đồng, tăng 13,5%.

5.5. Hoạt động du lịch

Quý I năm nay, hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh tiếp tục khởi sắc. Với nhiều giải pháp đồng bộ, quyết liệt và nỗ lực trong phát triển sản phẩm du lịch, xây dựng môi trường du lịch văn hóa, văn minh, an toàn và tổ chức các sự kiện, hoạt động truyền thông quảng bá du lịch, thương hiệu du lịch Ninh Bình ngày càng được khẳng định ở cả trong và ngoài nước, trở thành một trong 10 điểm đến hàng đầu Việt Nam, được ghi nhận với nhiều giải thưởng danh giá từ các tổ chức và chuyên trang du lịch quốc tế. Cùng với đó, các sự kiện, hoạt động về du lịch, văn hóa, thể thao thường xuyên được tổ chức như: Tuần Du lịch Ninh Bình “Sắc vàng Tam Cốc Tràng An”, Festival Ninh Bình, Lễ hội Hoa Lư, Lễ hội Tràng An, Lễ hội Bái Đính… nhờ đó, hoạt động xây dựng, phát triển thương hiệu điểm đến du lịch đã có nhiều đổi mới theo hướng bài bản, chuyên nghiệp hơn, góp phần thu hút lượng lớn khách du lịch đến với Ninh Bình.

Ước tính số lượt khách đến các điểm tham quan, du lịch trên địa bàn tỉnh trong tháng Ba đạt 1.480,6 nghìn lượt khách, tăng 11,9% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: Khách trong nước 1.272,0 nghìn lượt, tăng 8,6%; khách quốc tế 208,6 nghìn lượt, tăng 37,5%. Tổng số lượt khách đến các cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh ước đạt 264,2 nghìn lượt khách, tăng 13,7%; số ngày khách lưu trú ước đạt 277,3 nghìn ngày khách, tăng 13,9%. Doanh thu du lịch trong tháng ước đạt 1.638,8 tỷ đồng, tăng 30,2% so với cùng tháng năm trước.

Tính chung quý I năm nay, số lượt khách đến các điểm tham quan, du lịch trên địa bàn tỉnh ước đạt gần 4.415,9 nghìn lượt khách, tăng 13,0% so với quý I năm 2024, chia ra: Khách trong nước 3.880,8 nghìn lượt khách, tăng 10,1%; khách quốc tế 535,1 nghìn lượt, tăng 40,8%. Tổng số lượt khách đến các cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh ước đạt 801,3 nghìn lượt khách, tăng 27,9%; số ngày khách lưu trú ước đạt 852,8 nghìn ngày khách, tăng 21,5%. Doanh thu du lịch quý I ước đạt gần 4.691,6 tỷ đồng, tăng 29,3% so với cùng kỳ năm trước.

6. Một số vấn đề xã hội

6.1. Đời sống dân cư

Tỉnh Ninh Bình tập trung triển khai hiệu quả chính sách an sinh xã hội phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh nhằm mở rộng diện bao phủ. Quý I năm 2025, đã thực hiện hỗ trợ cho các đối tượng người có công với cách mạng, người cao tuổi, hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, đối tượng bảo trợ xã hội và các đối tượng khó khăn khác. Cụ thể: Hỗ trợ người có công và thân nhân người có công với cách mạng là 21.044 đối tượng, với số kinh phí là 193.109,2 triệu đồng. Hỗ trợ cho các đối tượng bảo trợ xã hội theo Nghị định 20/2021/NĐ-CP là 51.159 đối tượng, với số kinh phí là 116.202 triệu đồng. Hỗ trợ cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn, hộ chính sách xã hội không thuộc Nghị định 20/2021/NĐ-CP là 4.720 đối tượng với số tiền là 868,01 triệu đồng.  Hỗ trợ đóng và cấp phát miễn phí thẻ bảo hiểm y tế cho 312.931 đối tượng. Hỗ trợ 320 hộ nghèo, cận nghèo và hộ mới thoát nghèo vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội, với tổng kinh phí 22,2 tỷ đồng. Hỗ trợ vay vốn giải quyết việc làm cho 2.500 người lao động, với tổng kinh phí 200 tỷ đồng.

Trong dịp Tết nguyên đán Ất Tỵ, để đảm bảo mọi nhà, mọi người đều được vui tết, đón xuân, các cấp, các ngành từ Trung ương đến Địa phương, các tổ chức cá nhân và cộng đồng dân cư đã tổ chức thăm hỏi và tặng quà cho 158.541 lượt đối tượng với tổng kinh phí 68.075,8 triệu đồng.

Chính sách giải quyết việc làm, đào tạo nghề cho người lao động luôn được quan tâm thực hiện. Trong qI năm nay, đã giải quyết việc làm cho 4.600 lao động, trong đó xuất khẩu lao động là 330 người; đào tạo nghề cho 2.638 lao động; tư vấn, giới thiệu việc làm cho 7.011 lao động. Giải quyết cho 1.039 lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp, với tổng kinh phí trên 17.380,9 triệu đồng.

6.2. Giáo dục và đào tạo

Trong quý, ngành Giáo dục và Đào tạo tích cực triển khai nhiệm vụ giáo dục, ổn định nền nếp, tổ chức các hoạt động giáo dục theo kế hoạch thời gian năm học, đảm bảo chất lượng, hiệu quả. Triển khai dạy học 5 ngày/tuần đối với các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông; triển khai thực hiện nghiêm túc Thông tư 29/2024/TT-BGDĐT ngày 30/12/2024 của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về dạy thêm, học thêm. Tham gia và tổ chức các kỳ thi, cuộc thi, hội thi an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế và đạt được nhiều kết quả, cụ thể:

Tổ chức Kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia trung học phổ thông năm học 2024 - 2025; kỳ thi chọn học sinh giỏi lớp 9 Trung học cơ sở cấp tỉnh; kỳ thi chọn học sinh giỏi, học viên giỏi lớp 12 THPT cấp tỉnh; khảo sát, đánh giá chất lượng giáo dục lớp 12; tổ chức cuộc thi giao lưu “Tài năng tiếng Anh tiểu học cấp tỉnh” năm học 2024 - 2025 dành cho học sinh các khối lớp 3,4,5 đang học tập tại các cơ sở giáo dục tiểu học trong tỉnh…. Tham gia sân chơi “Ý tưởng trẻ thơ” năm học 2024 - 2025 cấp toàn quốc, kết quả có 03 ý tưởng được tham gia vòng Chung kết, 09 ý tưởng đạt giai khuyến khích.

Kết quả kỳ thi chọn HSG quốc gia THPT năm học 2024-2025: Có 80/100 thí sinh tham gia dự thi đoạt giải, đạt tỷ lệ 80%, xếp thứ 8 toàn quốc, cao hơn 22,4% so với tỉ lệ đoạt giải của toàn quốc, trong đó 19 giải Nhì, 23 giải Ba, 38 giải Khuyến khích, có 01 học sinh môn Hóa học được dự thi chọn đội tuyển Olympic Hóa học Quốc tế.

6.3. Hoạt động y tế [2]

Trong quý, ngành Y tế đã chủ động giám sát dịch bệnh tại các bệnh viện và cộng đồng; chuẩn bị đầy đủ cơ số thuốc, trang thiết bị, máy móc phục vụ công tác phòng, chống dịch bệnh; tăng cường giám sát các trường hợp mắc bệnh truyền nhiễm tại cộng đồng, phát hiện sớm các trường hợp bệnh truyền nhiễm, triển khai kế hoạch phòng, chống dịch bệnh mùa Đông Xuân.

Trong quý I năm nay không xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm, có 36 ca ngộ độc thực phẩm lẻ tẻ, không có tử vong do ngộ độc thực phẩm; 28 ca mắc sởi; 04 ca ho gà; 09 ca Rubella. Ghi nhận 01 ổ dịch sốt xuất huyết tại xóm 8, xã Khánh Hội, huyện Yên Khánh với 01 ca mắc, trường hợp mắc được giám sát và kiểm soát hạn chế lây lan trong cộng đồng.

Công tác phòng chống HIV/AIDS: Trong quý, phát hiện mới 02 người nhiễm HIV, có 05 trường hợp tử vong do AIDS. Lũy tích số người nhiễm HIV tính đến nay là 2.854 người, trong đó số người còn sống 1.465 người.

6.4. Văn hoá thông tin

Hoạt động văn hóa thông tin trong quý diễn ra với nhiều nội dung và hình thức phong phú, thiết thực, tạo không khí vui tươi, mừng xuân mới Ất Tỵ 2025, mừng kỷ niệm 95 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các hoạt động văn hóa tiêu biểu như: Tổ chức các buổi biển diễn nghệ thuật, triển lãm, trưng bày, trình chiếu phim, bắn pháo hoa đêm giao thừa, tổ chức thi đấu thể thao, tổ chức lễ phát động tết trồng cây, khai hội Chùa Bái Đính...

Trong quý I, Nhà hát chèo đã thực hiện 41 buổi biểu diễn nghệ thuật phục vụ nhiệm vụ chính trị và phục vụ Nhân dân. Trung tâm Văn hóa tỉnh tổ chức 122 buổi chiếu phim lưu động, 15 buổi chiếu phim tại rạp phục vụ Nhân dân; Bảo tàng tỉnh đã hướng dẫn và đón tiếp 9.191 lượt khách tham quan; Thư viện tỉnh luân chuyển trên 165,0 nghìn lượt sách, báo, tạp chí phục vụ bạn đọc.

6.5. Thể dục thể thao

Trong quý, tiếp tục duy trì đào tạo, huấn luyện nâng cao thành tích cho vận động viên các tuyến và cử các đoàn vận động viên đi thi đấu các giải thể thao đạt 89 huy chương các loại, gồm 25 huy chương Vàng, 30 huy chương Bạc và 34 huy chương Đồng. Bên cạnh đó, tổ chức thành công các giải thể thao trên địa bàn tỉnh, cụ thể như: Tổ chức các giải thể thao quần chúng phục vụ Nhân dân vui xuân, đón Tết như: giải Vật dân tộc tỉnh Ninh Bình năm 2025; giải Việt dã tỉnh Ninh Bình năm 2025- Cup SHB; giải giao hữu Quần vợt đầu xuân Ất Tỵ; giải Bóng bàn các câu lạc bộ Cúp Liên đoàn tỉnh Ninh Bình năm 2025; tổ chức giải Bóng chuyền cúp Hoa Lư - Bình Điền lần thứ XIX năm 2025; phối hợp tổ chức các trận thi đấu trong khuôn khổ Giải Bóng đá hạng Nhất quốc gia trên sân vận động tỉnh Ninh Bình.

6.6. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội[3]

Trong quý, lực lượng công an toàn tỉnh đã đồng loạt triển khai các kế hoạch, phương án đảm bảo an ninh trật tự, trật tự an toàn giao thông, đảm bảo tốt cho các sự kiện chính trị, văn hóa, xã hội quan trọng trên địa bàn, đảm bảo giữ vững, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đồng thời huy động tối đa lực lượng, phương tiện tăng cường tuần tra, khép kín trên các tuyến, địa bàn trọng điểm, giải quyết tốt các tình huống có thể xảy ra, quyết tâm không để xảy ra ùn tắc giao thông kéo dài, đua xe trái phép và các hành vi vi phạm pháp luật tại các nơi diễn ra các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, vui chơi, giải trí, nơi tập trung đông người…

Tính từ 15/02/2025-14/3/2025, trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 14 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm chết 07 người và 11 người bị thương; xảy ra 29 vụ phạm pháp hình sự với 75 đối tượng; phát hiện 13 vụ buôn bán, vận chuyển, tàng trữ ma tuý với 15 đối tượng. Không xảy ra vụ cháy, nổ.

Tính chung lại, quý I năm nay (tính từ 15/12/2024 đến 15/3/2025) trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 54 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 25 người và 44 người bị thương (giảm 08 người chết và tăng 10 người bị thương so với cùng kỳ năm 2024); xảy ra 82 vụ phạm pháp hình sự với 169 đối tượng; phát hiện 67 vụ buôn bán, vận chuyển, tàng trữ ma tuý với 79 đối tượng. Xảy ra 02 vụ cháy làm 02 người bị thương nhẹ, thiệt hại về tài sản không đáng kể.



[1] Số liệu về tốc độ tăng trưởng GRDP và cơ cấu kinh tế do Cục Thống kê tính toán và công bố

[2] Theo số liệu trong Báo cáo kết quả hoạt động y tế quý I năm 2025 của Sở Y tế

[3] Số liệu về tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội là số liệu của Công an tỉnh tính từ 15/02/2025 đến 14/3/2025





CÁC BÀI KHÁC


359079

47
163
359079