Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội tháng Tư năm 2025
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Nhiệm vụ trọng tâm của sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trong tháng là tập trung chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh cho lúa và các loại cây màu vụ Xuân; triển khai phòng chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm, thủy sản; tăng cường quản lý, phòng chống cháy rừng và thực hiện tốt công tác quản lý chất lượng giống thủy sản, đặc biệt là tôm giống nhập vào địa bàn.
1.1. Nông nghiệp
1.1.1. Trồng trọt
Trong tháng, thời tiết tương đối thuận lợi, các loại cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt. Đến nay, các địa phương trong tỉnh đã hoàn thành gieo trồng cây vụ Xuân, diện tích lúa ước đạt trên 39,3 nghìn ha, đạt 100,8% kế hoạch gieo cấy lúa vụ Xuân năm 2025 toàn tỉnh, giảm 0,6% (- 0,2 nghìn ha) so với cùng vụ năm trước.
Các cây trồng khác: Diện tích gieo trồng các loại cây màu vụ Xuân đến ngày 23/4/2025 ước đạt 6.391 ha, bằng 106,3% kế hoạch, trong đó cây ngô đạt 1.441 ha, cây khoai lang 176 ha; cây lạc đạt 1.707 ha; rau đậu các loại và cây màu khác đạt 3.067 ha.
Diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Xuân năm 2025 tiếp tục có xu hướng giảm, nguyên nhân chủ yếu do việc thu hồi đất để chuyển đổi mục đích sử dụng phục vụ xây dựng các công trình giao thông, cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp, Cụm công nghiệp, khu dân cư; chuyển đổi một số diện tích cấy lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản và trồng cây lâu năm,…
Đến ngày 23/4/2025, 100% diện tích lúa cấy đã được chăm sóc đợt 2; diện tích lúa trỗ là 2.240 ha, trong đó huyện Nho Quan 1.690 ha, huyện Gia Viễn 550 ha.
Tình hình sâu bệnh: Hiện nay, các đối tượng gây hại đang phát sinh trên diện tích lúa Xuân như sâu cuốn lá nhỏ, sâu đục thân hai chấm, đạo ôn cổ bông... Các cấp, các ngành đang tập trung chỉ đạo bà con nông dân thường xuyên kiểm tra đồng ruộng, phân rõ các trà lúa, theo dõi chặt chẽ diễn biến thời tiết, dịch hại để phòng trừ kịp thời, không phun thuốc tràn lan để bảo vệ thiên địch và bảo vệ môi trường.
1.1.2. Chăn nuôi
Trong tháng, đàn gia súc, gia cầm phát triển tốt. Công tác tái đàn tiếp tục được thực hiện, tổng đàn gia súc, gia cầm ước tính đều tăng so với cùng thời điểm năm trước.
Tại thời điểm báo cáo đàn trâu đạt 12,8 nghìn con, tăng 0,2% (+ 0,02 nghìn con); đàn bò đạt 35,4 nghìn con, tăng 2,0% (+ 0,7 nghìn con); đàn lợn (không bao gồm lợn con chưa tách mẹ) ước đạt 235,9 nghìn con, tăng 2,7% (+ 6,1 nghìn con); đàn gia cầm ước đạt 6,7 triệu con, tăng 4,8% (+ 0,3 triệu con), trong đó đàn gà đạt 4,7 triệu con, tăng 4,9% (+ 0,2 triệu con).
Tình hình dịch bệnh: Do điều kiện thời tiết thay đổi, tạo điều kiện cho mầm bệnh phát triển nên trong tháng đã phát sinh 03 ổ dịch tả lợn Châu Phi tại xã Yên Thành huyện Yên Mô, xã Thanh Sơn huyện Nho Quan và xã Gia Hòa huyện Gia Viễn. Lũy kế tiêu hủy từ ngày 01/01/2025 đến nay là 296 con, trọng lượng tiêu hủy 13,1 tấn.
1.2. Lâm nghiệp
Sản xuất lâm nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào công tác trồng rừng, trồng cây phân tán và chăm sóc rừng ở các địa phương, đồng thời duy trì các biện pháp bảo vệ và phòng, chống cháy rừng.
Diện tích trồng rừng mới tập trung trong tháng ước đạt 32,3 ha, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 2,3 nghìn m3, tăng 1,7%; số cây lâm nghiệp trồng phân tán ước đạt 74,5 nghìn cây, tăng 2,1%. Tính chung 4 tháng đầu năm 2025, diện tích trồng rừng mới tập trung ước đạt 70,8 ha, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 9,0 nghìn m3, tăng 1,3%; số cây lâm nghiệp trồng phân tán ước đạt 365,5 nghìn cây, tăng 2,8%.
1.3. Thuỷ sản
Trong tháng, sản xuất thủy sản phát triển tốt, không có dịch bệnh xảy ra, thời tiết tương đối thuận lợi cho hoạt động nuôi trồng và khai thác thủy sản. Tại vùng sản xuất nước lợ huyện Kim Sơn, phần lớn các hộ nuôi đã thả giống vụ I năm 2025, các yếu tố môi trường ổn định, con giống phát triển tốt. Lượng tôm giống chủ yếu nhập ở các tỉnh Nghệ An, Khánh Hòa...
Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng Tư ước đạt 6,0 nghìn tấn, tăng 5,0% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Sản lượng cá ước đạt 3,1 nghìn tấn, tăng 5,0%; sản lượng tôm ước đạt 0,2 nghìn tấn, tăng 10,0%; sản lượng thủy sản khác đạt 2,7 nghìn tấn, tăng 4,7%. Sản lượng thuỷ sản khai thác biển trong tháng ước đạt 173,4 tấn, tăng 4,8%.
Tính chung lại, sản lượng thủy sản nuôi trồng 4 tháng đầu năm 2025 ước đạt 20,6 nghìn tấn, tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Sản lượng cá ước đạt 10,7 nghìn tấn, tăng 4,9%; sản lượng tôm ước đạt 0,7 nghìn tấn, tăng 9,2%; sản lượng thủy sản khác đạt 9,2 nghìn tấn, tăng 3,9%. Sản lượng thuỷ sản khai thác biển ước đạt 857,5 tấn, tăng 20,7% so với cùng kỳ một mặt do thời tiết thuận lợi các tàu ra khơi đánh bắt, mặt khác một số tàu thay đổi lưới đánh bắt, sản lượng con ruốc tăng cao.
2. Sản xuất công nghiệp
Tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh trong tháng Tư tiếp tục duy trì đà tăng trưởng và đạt được kết quả khá so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù vậy, trước những biến động phức tạp, nhanh và khó dự đoán của tình hình thế giới cũng như trong khu vực, hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức như một số ngành công nghiệp trọng điểm duy trì được đà tăng trưởng nhưng chưa có đột phá, nhu cầu thị trường trong nước có phục hồi nhưng còn chậm, số lượng đơn hàng mới ký kết của doanh nghiệp không nhiều,...
Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) toàn tỉnh tháng Tư ước tính tăng 12,02% so với cùng tháng năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 0,13%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14,86%; sản xuất và phân phối điện giảm 48,17%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,27%.
So với tháng trước (tháng 3/2025), chỉ số IIP toàn tỉnh tháng này tăng 1,94%, trong đó ngành khai khoáng tăng 15,43%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,92%; sản xuất và phân phối điện giảm 2,17%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,39%.
Tính chung lại 4 tháng đầu năm 2025 chỉ số IIP toàn tỉnh tăng 11,74% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó ngành khai khoáng tăng 2,61%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14,24%; sản xuất và phân phối điện giảm 44,45%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,92%.
Giá trị sản xuất: Tính theo giá so sánh 2010, giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh trong tháng Tư ước đạt 9.538,5 tỷ đồng, tăng 10,6% so với tháng 4/2024. Trong đó: Khai khoáng ước đạt 79,8 tỷ đồng, tăng 3,5%; công nghiệp chế biến, chế tạo 9.392,7 tỷ đồng, tăng 11,3%; sản xuất và phân phối điện 50,8 tỷ đồng, giảm 48,2%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 15,2 tỷ đồng, tăng 0,5%.
Tính chung lại, giá trị sản xuất công nghiệp 4 tháng đầu năm 2025 toàn tỉnh theo giá so sánh 2010 ước đạt 33.997,7 tỷ đồng, tăng 9,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Khai khoáng ước đạt 337,8 tỷ đồng, tăng 8,1%; công nghiệp chế biến, chế tạo 33.396,5 tỷ đồng, tăng 10,4%; sản xuất và phân phối điện 195,8 tỷ đồng, giảm 44,6%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 67,6 tỷ đồng, tăng 2,1%.
Sản phẩm công nghiệp chủ yếu: Một số sản phẩm công nghiệp trong tháng Tư năm nay có mức sản xuất tăng khá so với cùng tháng năm trước như: Ngô ngọt đóng hộp 0,3 nghìn tấn, tăng 40,1%; hàng thêu 84,0 nghìn m2, tăng 52,7%; quần áo các loại 5,5 triệu cái, tăng 19,4%; phân lân nung chảy 23,2 nghìn tấn, tăng 19,0%; xi măng (kể cả clanke) 0,7 triệu tấn, tăng 8,2%; cấu kiện nhà lắp sẵn bằng kim loại 20,3 tấn, tăng 23,0%; modul camera 25,3 triệu cái, gấp 2,1 lần; kính máy ảnh 0,2 triệu cái, gấp 3,3 lần; xe ô tô 5 chỗ ngồi trở lên 4,0 nghìn chiếc, tăng 34,9%; xe ô tô chở hàng 0,9 nghìn chiếc, tăng 23,0%; ghế ngồi dùng cho xe có động cơ 20,1 nghìn chiếc, tăng 23,3%; búp bê 21,5 triệu con, tăng 22,4%;... Bên cạnh đó vẫn có một số sản phẩm giảm sút so với cùng kỳ như: Thức ăn gia súc 2,2 nghìn tấn, giảm 23,2%; thép cán các loại 23,4 nghìn tấn, giảm 15,5%; cấu kiện tháp, cột bằng sắt, thép bắt chéo nhau 88,7 tấn, giảm 13,1%; linh kiện điện tử 9,5 triệu cái, giảm 13,6%; tai nghe điện thoại di động 5,0 nghìn cái, giảm 97,3%; đồ chơi hình con vật 2,5 triệu con, giảm 20,4%; điện sản xuất 19,9 triệu Kwh, giảm 75,1%;...
Tính chung 4 tháng đầu năm 2025, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu của tỉnh có mức sản xuất tăng khá so với cùng kỳ như: Ngô ngọt đóng hộp 1,2 nghìn tấn, tăng 22,7%; dứa đóng hộp 3,4 nghìn tấn, tăng 33,2%; nước dứa tươi 2,0 triệu lít, tăng 15,4%; hàng thêu 0,5 triệu m2, tăng 35,2%; quần áo các loại 21,7 triệu cái, tăng 14,2%; phân Ure 0,2 triệu tấn, tăng 12,2%; phân NPK 47,3 nghìn tấn, tăng 33,2%; phân lân nung chảy 90,4 nghìn tấn, tăng 25,9%; xi măng (kể clanke) 2,5 triệu tấn, tăng 25,7%; cấu kiện nhà lắp sẵn bằng kim loại 60,5 tấn, tăng 58,8%; modul camera 82,6 triệu cái, tăng 35,9%; xe ô tô 5 chỗ ngồi trở lên 15,5 nghìn chiếc, tăng 18,2%; xe ô tô chở hàng hóa 3,5 nghìn chiếc, tăng 42,8%; ghế ngồi dùng cho xe có động cơ 74,6 nghìn chiếc, tăng 11,3%; búp bê 69,9 triệu con, tăng 23,2%; điện thương phẩm 0,9 tỷ Kwh, tăng 10,8%;... Tuy nhiên một số sản phẩm lại giảm sút như: Thức ăn gia súc 6,8 nghìn tấn, giảm 7,9%; linh kiện điện tử 34,2 triệu cái, giảm 9,0%; tai nghe điện thoại di động 26,3 nghìn cái, giảm 92,4%; kính máy ảnh 0,6 triệu cái, giảm 29,5%; đồ chơi hình con vật 8,1 triệu con, giảm 15,1%; điện sản xuất 79,0 triệu Kwh, giảm 72,7%;…
Sản lượng tồn kho một số sản phẩm chủ yếu đến 30/4/2025: Giầy dép 2,7 triệu đôi; đạm Ure 20,5 nghìn tấn; phân NPK 27,5 nghìn tấn; phân lân nung chảy 9,4 nghìn tấn; kính xây dựng 61,2 nghìn tấn; xi măng 11,9 nghìn tấn; thanh, que sắt hoặc thép không hợp kim, được cán nóng 8,9 nghìn tấn; bản vi mạch điện tử 20,0 triệu chiếc; camera và linh kiện điện tử 15,2 triệu cái; xe ô tô từ 5 chỗ ngồi trở lên 372 chiếc;...
3. Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn
Tổng số vốn đầu tư thực hiện trong tháng Tư năm 2025 toàn tỉnh ước đạt 3.052,2 tỷ đồng, tăng 13,3% so với cùng tháng năm trước. Chia ra: Vốn Nhà nước đạt 797,6 tỷ đồng, tăng 42,5%; vốn ngoài Nhà nước đạt 2.026,2 tỷ đồng, tăng 11,3%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 228,4 tỷ đồng, giảm 27,3%.
Tính chung lại, tổng vốn đầu tư thực hiện trong 4 tháng đầu năm 2025 toàn tỉnh ước đạt 11.223,6 tỷ đồng, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm 2024. Chia ra: Vốn Nhà nước đạt 3.004,6 tỷ đồng, tăng 50,6%; vốn ngoài Nhà nước đạt 7.453,9 tỷ đồng, tăng 10,9%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 765,1 tỷ đồng, giảm 39,9%.
Vốn đầu tư thực hiện trong tháng của một số dự án, công trình có khối lượng lớn là:
- Khu vực đầu tư công: Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Ninh Bình - Hải Phòng đoạn qua tỉnh Ninh Bình ước đạt 150,3 tỷ đồng; dự án xây dựng cơ sở hạ tầng khu du lịch sinh thái Tràng An và các dự án thành phần ước đạt 44,4 tỷ đồng; dự án xây dựng trường Đại học Hoa Lư (giai đoạn 2) ước đạt 28,0 tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đường Đông - Tây, tỉnh Ninh Bình (giai đoạn I) ước đạt 20,3 tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đường bộ vien biển qua tỉnh Ninh Bình (giai đoạn 1) ước đạt 20,0 tỷ đồng;…
- Khu vực sử dụng vốn ODA: Dự án cải thiện cơ sở hạ tầng đô thị nhằm giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu cho 04 tỉnh ven biển Bắc Trung Bộ - Tiểu dự án cải thiện cơ sở hạ tầng đô thị Phát Diệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình ước đạt 16,8 tỷ đồng.
- Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài: Dự án xây dựng nhà xưởng sản xuất, mua sắm tài sản, lắp đặt máy móc thiết bị phục vụ sản xuất camera module của Công ty TNHH MCNEX Vina ước đạt 69,5 tỷ đồng; dự án xây dựng và lắp đặt máy móc thiết bị của Công ty TNHH Simona Leather ước đạt 31,2 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất của Công ty TNHH đầu tư và phát triển Adora Việt Nam ước đạt 22,5 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà xưởng sản xuất giày của Công ty TNHH Giầy Athena Việt Nam ước đạt 16,7 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất giày của Công ty TNHH sản xuất giày Chung Jye Ninh Bình - Việt Nam ước đạt 14,6 tỷ đồng;…
4. Thương mại, dịch vụ và giá cả
4.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa trong tháng Tư ước đạt 7.658,5 tỷ đồng, tăng 27,4% so với tháng 4/2024. Tính chung lại cả 4 tháng đầu năm 2025, doanh thu bán lẻ hàng hoá toàn tỉnh ước đạt 32.783,0 tỷ đồng, tăng 24,2% so với cùng kỳ năm trước. Tất cả các nhóm hàng hoá đều có doanh thu bán lẻ tăng, trong đó các nhóm có tốc độ tăng cao là: Phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng) ước đạt 437,0 tỷ đồng, tăng 34,8%; ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) ước đạt 4.561,0 tỷ đồng, tăng 34,6%; gỗ và vật liệu xây dựng ước đạt 5.530,7 tỷ đồng, tăng 31,3%; hàng hóa khác 837,3 tỷ đồng, tăng 31,9%; doanh thu dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 1.383,3 tỷ đồng, tăng 22,4%; nhiên liệu khác (trừ xăng dầu) ước đạt 324,6 tỷ đồng, tăng 22,1%; xăng, dầu các loại 2.785,6 tỷ đồng, tăng 21,0%;...
Trong tháng Tư, doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống toàn tỉnh ước đạt 1.126,7 tỷ đồng, tăng 42,4% so với tháng 4 năm 2024; doanh thu dịch vụ du lịch lữ hành ước đạt 9,6 tỷ đồng, tăng 20,4%; doanh thu một số ngành dịch vụ khác ước đạt 755,8 tỷ đồng, tăng 47,1%. Tính chung 4 tháng đầu năm nay, doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống thực hiện trên toàn tỉnh ước đạt 4.108,4 tỷ đồng, tăng 33,6% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ du lịch lữ hành 29,3 tỷ đồng, giảm 18,0%; doanh thu một số ngành dịch vụ khác 2.799,1 tỷ đồng, tăng 38,6%.
4.2. Chỉ số giá
Chỉ số giá tiêu dùng: Chỉ số giá tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ chung (CPI) trên địa bàn tỉnh trong tháng Tư tiếp tục duy trì đà tăng từ đầu năm. So với tháng trước CPI tăng 0,11%; so với tháng 12 năm trước CPI tăng 1,85% và so với 4/2024 CPI tăng 3,63%. Bình quân 4 tháng đầu năm 2025, CPI tăng 3,69% so với cùng kỳ.
So với tháng trước, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng có 03 nhóm có chỉ số giá tăng, 05 nhóm có chỉ số giá giảm và 03 nhóm giữ chỉ số ổn định. Các nhóm có chỉ số giá tăng gồm: Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng cao nhất 2,39% do giá nhà ở thuê và nhà chủ sở hữu tính quy đổi trong tháng tăng 7,53%, vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,42%, nguyên nhân do nhu cầu thuê nhà ở của người dân tăng cùng với tình trạng khan hiếm cục bộ vật liệu xây dựng khi nhu cầu xây dựng tăng cao, đặc biệt là các dự án lớn, cơ sở hạ tầng được xây dựng nhiều trong khi việc khai thác cát, đá bị hạn chế ở nhiều khu vực để bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên, bên cạnh đó giá điện sinh hoạt bình quân tăng 0,27% do vào mùa hè nên nhu cầu sử dụng điện của người dân tăng. Nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,08% và nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,06%. Năm nhóm có chỉ số giá giảm gồm: Nhóm giao thông giảm sâu nhất 1,34% do giá xăng, dầu diezel được điều chỉnh giảm trong tháng (giá xăng giảm 3,59%, giá dầu diezel giảm 3,86%); nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,53%, trong đó lương thực giảm 0,83% do giá gạo giảm 1,07% theo giá gạo xuất khẩu khi Ấn Độ nới lỏng lệnh hạn chế xuất khẩu gạo sau hai năm siết chặt, nguồn cung trên thị trường quốc tế gia tăng tạo áp lực cạnh tranh cho các nước xuất khẩu gạo khác trong đó có Việt Nam, thêm vào đó, nhu cầu nhập khẩu gạo của các thị trường lớn như Philippines, Indonesia trên đà giảm sút khi các nước này đã tích lũy đủ lượng gạo dự trữ và chờ giá giảm thêm trước khi tái nhập khẩu; thực phẩm giảm 0,7% do giá thịt gia súc giảm 2,71%; thịt gia cầm giảm 0,65%; thịt chế biến giảm 1,19% khi nguồn cung tăng; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,08%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,4%, nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,04% và nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,02%. Ba nhóm còn lại giữ chỉ số giá ổn định là: Nhóm đồ uống và thuốc lá, nhóm thuốc và dịch vụ y tế và nhóm giáo dục.
Bình quân 4 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm 2024, có đến 08 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, gồm: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 4,52% (lương thực tăng 3,88%, thực phẩm tăng 6,09%, ăn uống ngoài gia đình tăng 0,71%); nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 4,89%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 4,02%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 5,09%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 2,14%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 11,84%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 2,02% và nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 6,84%. Ba nhóm còn lại có chỉ số giá giảm gồm: Nhóm giao thông giảm 4,43%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,35%; nhóm giáo dục giảm 0,09%.
Chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ: Chỉ số giá vàng tháng Tư năm nay tăng 11,93% so với tháng trước, tăng 25,06% so với tháng 12/2024 và tăng 41,39% so với cùng tháng năm 2024. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng này tăng 0,41% so với tháng 3/2025, tăng 1,37% so với tháng 12/2024 và tăng 3,73% so với tháng 4/2024. Bình quân 4 tháng đầu năm 2025, chỉ số giá vàng tăng 39,39%, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 4,58% so với cùng kỳ năm trước.
4.3. Xuất nhập khẩu
Xuất khẩu: Tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa toàn tỉnh trong tháng Tư ước thực hiện 303,5 triệu USD, tăng 8,1% so với tháng Tư năm 2024.
Trong 4 tháng đầu năm 2025, tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa toàn tỉnh ước đạt 1.154,3 triệu USD, tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn là: Camera và linh kiện ước đạt 293,2 triệu USD; giày dép các loại 277,9 triệu USD; xi măng và clanke 215,6 triệu USD; quần áo các loại 99,1 triệu USD; linh kiện phụ tùng ô tô các loại 52,7 triệu USD; linh kiện điện tử 42,7 triệu USD,.
Một số mặt hàng có mức xuất khẩu tăng khá so với cùng kỳ như: Dứa, dưa chuột đóng hộp 4,0 nghìn tấn, tăng 70,6%; nước dứa cô đặc 0,8 nghìn tấn, gấp 2,6 lần; sản phẩm cói khác 454,5 nghìn sản phẩm, tăng 16,4%; xi măng, clanke 5,8 triệu tấn, tăng 19,9%; camera và linh kiện 74,9 triệu sản phẩm, tăng 18,6%; phân ure 56,4 nghìn tấn, gấp 3,9 lần; linh kiện phụ tùng ô tô các loại 52,7 triệu USD, tăng 29,4%.... Tuy nhiên một số mặt hàng xuất khẩu giảm sút so với cùng kỳ như: Quần áo các loại 15,8 triệu chiếc, giảm 15,1%; kính quang học 768,9 nghìn chiếc, giảm 12,3%; đồ chơi trẻ em 5,7 triệu con, giảm 21,1%; linh kiện điện tử 42,7 triệu USD, giảm 3,9%.
Nhập khẩu: Tổng giá trị nhập khẩu hàng hóa trong tháng Tư ước thực hiện 278,6 triệu USD, tăng 20,6% so với cùng tháng năm 2024.
Tính chung lại, 4 tháng đầu năm nay tổng giá trị nhập khẩu hàng hóa ước đạt 1.064,4 triệu USD, tăng 11,2% so với cùng kỳ năm trước. Trị giá các nhóm mặt hàng nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn là: Linh kiện điện tử gần 329,7 triệu USD; linh kiện phụ tùng ô tô các loại 309,6 triệu USD; phụ liệu sản xuất giày, dép 184,8 triệu USD; vải may mặc các loại 38,9 triệu USD; máy móc thiết bị 22,1 triệu USD; ô tô 14,2 triệu USD.
4.4. Vận tải hành khách và hàng hóa
Vận tải hành khách: Ước thực hiện trong tháng Tư đạt 5,1 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 25,8% so với tháng 4/2024 và luân chuyển 227,6 triệu lượt khách.km, tăng 23,8%. Tính chung 4 tháng đầu năm nay, khối lượng hành khách vận chuyển thực hiện toàn tỉnh ước đạt 23,6 triệu lượt khách, tăng 28,3% và luân chuyển 1.050,7 triệu lượt khách.km, tăng 25,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vận tải đường bộ ước đạt 18,1 triệu lượt khách, tăng 25,8% và 1.028,7 triệu lượt khách.km, tăng 24,9%; vận tải đường thủy nội địa 5,5 triệu lượt khách, tăng 37,3% và 22,0 triệu lượt khách.km, tăng 39,5%.
Vận tải hàng hóa: Trong tháng Tư, khối lượng hàng hóa vận chuyển toàn tỉnh ước thực hiện 14,9 triệu tấn, tăng 21,1% so với tháng 4/2024 và luân chuyển 1.820,4 triệu tấn.km, tăng 14,8%. Tính chung cả 4 tháng, khối lượng hàng hoá vận chuyển toàn tỉnh đạt 70,3 triệu tấn, tăng 22,1% và luân chuyển 9.031,8 triệu tấn.km, tăng 21,5% so với 4 tháng đầu năm 2024. Trong đó: Vận tải đường bộ ước đạt 27,3 triệu tấn, tăng 25,3% và 1.131,6 triệu tấn.km, tăng 23,6%; vận tải đường thủy nội địa 38,0 triệu tấn, tăng 19,3% và 5.194,8 triệu tấn.km, tăng 17,8%; vận tải biển 5,0 triệu tấn, tăng 27,7% và 2.705,4 triệu tấn.km, tăng 28,3%.
Doanh thu vận tải: Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải toàn tỉnh thực hiện trong tháng ước đạt 1.760,7 tỷ đồng, tăng 19,3% so với cùng tháng năm trước. Tính trong 4 tháng đầu năm, doanh thu hoạt động vận tải toàn tỉnh ước đạt 8.483,3 tỷ đồng, tăng 24,4% so với 4 tháng năm 2024. Phân theo loại hình vận tải: Vận tải hành khách ước thực hiện 1.066,6 tỷ đồng, tăng 25,9%; vận tải hàng hóa 6.671,2 tỷ đồng, tăng 26,0%; hoạt động dịch vụ hỗ trợ vận tải 693,9 tỷ đồng, tăng 9,9%; bưu chính chuyển phát 51,6 tỷ đồng, tăng 12,6%.
4.5. Hoạt động du lịch
Ước tính số lượt khách đến các điểm tham quan, du lịch trên địa bàn tỉnh trong tháng Tư đạt 1.172,3 nghìn lượt khách, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: Khách trong nước 982,3 nghìn lượt, tăng 9,4%; khách quốc tế 190,0 nghìn lượt, tăng 43,5%. Tổng số lượt khách đến các cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh ước đạt 247,3 nghìn lượt khách, tăng 13,4%; số ngày khách lưu trú ước đạt 262,1 nghìn ngày khách, tăng 12,1%. Doanh thu du lịch trong tháng ước đạt 1.351,2 tỷ đồng, tăng 35,7% so với cùng tháng năm trước.
Tính chung 4 tháng năm nay, số lượt khách đến các điểm tham quan, du lịch trên địa bàn tỉnh ước đạt gần 5.609,7 nghìn lượt khách, tăng 13,6% so với 4 tháng năm 2024, chia ra: Khách trong nước 4.834,4 nghìn lượt khách, tăng 9,3%; khách quốc tế 775,3 nghìn lượt, tăng 51,2%. Tổng số lượt khách đến các cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh ước đạt 1.052,0 nghìn lượt khách, tăng 24,5%; số ngày khách lưu trú ước đạt 1.116,7 nghìn ngày khách, tăng 19,3%. Doanh thu du lịch 4 tháng ước đạt trên 6.056,9 tỷ đồng, tăng 31,0% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu khách sạn 377,4 tỷ đồng, tăng 21,2%; doanh thu nhà hàng 2.664,2 tỷ đồng, tăng 18,0%.
5. Một số vấn đề xã hội
5.1. Giáo dục
Trong tháng, ngành Giáo dục tiếp tục thực hiện nhiệm vụ công tác chuyên môn, ổn định nề nếp và tổ chức các hoạt động giáo dục theo kế hoạch thời gian năm học; tổ chức và tham gia các cuộc thi đạt được một số kết quả như:
Tham dự Cuộc thi Khoa học kỹ thuật học sinh trung học cấp quốc gia, gồm 03 dự án, kết quả: 01 dự án đạt giải Ba; 02 dự án đạt giải triển vọng; tham gia ngày hội khởi nghiệp quốc gia của học sinh, sinh viên lần thứ VII do Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức, kết quả 01 dự án đạt giải Nhì (dự án "Gốm sành nghệ thuật-Clay Heart" của nhóm 5 học sinh Trường THPT Nho Quan C và Trường THPT Nho Quan B); tham gia vòng chung kết Cuộc thi “Tuổi trẻ học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gồm 7 giáo viên cấp THCS và 14 học sinh, trong đó có 08 học sinh cấp THCS, 06 học sinh cấp THPT. Kết quả: Đạt 02 giải Khuyến khích.
Tổ chức thành công kỳ thi chọn học sinh giỏi các trường THPT chuyên Khu vực Duyên hải và Đồng bằng Bắc bộ năm 2025, tham dự giải gồm 43 trường THPT chuyên. Đoàn tỉnh Ninh Bình gồm 60 thí sinh tham dự, kết quả: Đạt 09 huy chương Vàng, 13 huy chương Bạc, 24 huy chương Đồng và 14 giải Khuyến khích, đứng thứ 6 khu vực; tổ chức chung kết Olympic “Tài năng Tiếng Anh” dành cho học sinh THCS và Olympic “Chinh phục IELTS” dành cho học sinh THPT năm học 2024-2025.
5.2. Y tế [1]
Trong tháng, ngành Y tế đã chủ động giám sát dịch bệnh tại các bệnh viện và cộng đồng, tăng cường giám sát và phát hiện sớm các trường hợp mắc bệnh truyền nhiễm; theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình, kịp thời ứng phó với dịch bệnh, không để dịch bệnh lớn xảy ra; chuẩn bị đầy đủ cơ số thuốc, trang thiết bị, máy móc phục vụ công tác phòng, chống dịch bệnh; đẩy mạnh tuyên truyền về chiến dịch tiêm vắc xin sởi và phòng, chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Trong tháng Tư, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 24 ca ngộ độc thực phẩm lẻ tẻ, không có tử vong do ngộ độc thực phẩm. Một số bệnh có ca mắc tăng so với cùng kỳ như: Sởi 262 ca, Rubella 07 ca, quai bị 03 ca. Trong tháng, phát hiện 08 ổ dịch sởi (trong đó: thành phố Ninh Bình 05 ổ dịch, huyện Yên Mô 02 ổ dịch, huyện Kim Sơn 01 ổ dịch), các ổ dịch đều được giám sát và kiểm soát, hạn chế lây lan trong cộng đồng, không có trường hợp tử vong.
Công tác khám chữa bệnh luôn được quan tâm thực hiện: Tại các cơ sở y tế trên địa bàn toàn tỉnh đã khám bệnh cho 100,9 nghìn lượt bệnh nhân; điều trị nội trú cho 18,5 nghìn lượt bệnh nhân; điều trị phụ khoa 1,1 nghìn lượt; khám thai 5,7 nghìn lượt; đặt vòng 479 ca, triệt sản 03 ca.
Công tác phòng chống HIV/AIDS: Trong tháng không phát hiện mới người nhiễm HIV, có 02 trường hợp tử vong do AIDS.
5.3. Văn hoá thông tin
Hoạt động Văn hóa - Thông tin trong tháng diễn ra sôi nổi với nhiều hình thức phong phú, thiết thực chào mừng các sự kiện trọng đại của đất nước và địa phương: Kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước (30/4/1975- 30/4/2025), ngày Quốc tế lao động 01/5; Lễ hội Hoa Lư năm 2025;… Hình thức tuyên truyền đa dạng, phong phú như: Tổ chức biểu diễn văn hóa, nghệ thuật, thi đấu thể thao, triển lãm ảnh…
Trong tháng, Nhà hát Chèo đã tổ chức 23 buổi biểu diễn nghệ thuật và chương trình ca múa nhạc phục vụ nhiệm vụ chính trị và phục vụ nhân dân. Trung tâm Văn hóa tỉnh đã thực hiện 04 buổi chiếu phim lưu động phục vụ nhân dân, 01 buổi chiếu phim phục vụ các cháu học sinh. Thư viện tổ chức luân chuyển 112,4 nghìn lượt sách báo, tạp chí phục vụ người đọc. Bảo tàng tỉnh hướng dẫn và đón tiếp 7,3 nghìn lượt khách tham quan.
5.4. Thể dục thể thao
Trong tháng, tiếp tục duy trì công tác đào tạo, huấn luyện nâng cao thành tích cho vận động viên thành tích cao của tỉnh và cử các vận động viên tham gia thi đấu các giải thể thao trong nước, cụ thể: Đoàn VĐV Cử tạ tham dự Giải vô địch Cử tạ thanh thiếu niên quốc gia năm 2025 từ ngày 26/3 - 04/4 tại tỉnh Đắk Lắk đoạt 02 HCĐ; đoàn VĐV Judo tham dự giải vô địch Judo quốc gia năm 2025 tại tỉnh Đồng Tháp từ ngày 27/3 - 06/4 đoạt 02 HCV, 01 HCB; đoàn VĐV Bóng chuyền nữ LPBank Ninh Bình tham dự thi đấu tranh Cup Hùng Vương tại tỉnh Phú Thọ từ ngày 03 - 06/4, đạt ngôi vô địch; đoàn VĐV Boxing tham gia thi đấu Giải vô địch Boxing các đội mạnh toàn quốc năm 2025 tại tỉnh Đắk Lắk từ ngày 10 - 21/4 đoạt 01 HCB, 03 HCĐ.
Bên cạnh đó, phối hợp tổ chức thành công các giải thi đấu thể thao như: Các trận Bóng đá trong khuôn khổ giải hạng nhất Quốc gia; giải Bóng bàn các CLB Cúp Liên đoàn tỉnh Ninh Bình; giải Vô địch Anh tài Vật dân tộc quốc gia năm 2025; Giải Quần vợt các Câu lạc bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ XIX năm 2025...
5.5. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội[2]
Trong tháng, lực lượng công an trong tỉnh đã chủ động nắm và kiểm soát tốt tình hình, không để xảy ra đột xuất, bất ngờ; huy động tối đa lực lượng bảo đảm an toàn, an ninh trật tự tại Lễ hội Hoa Lư năm 2024 và các sự kiện tập trung đông người, các điểm du lịch có lượng khách tham quan đông như Khu du lịch sinh thái Tràng An, Tam Cốc - Bích Động... nhằm hạn chế xảy ra tình trạng ùn tắc giao thông, đảm bảo an toàn cho nhân dân và du khách.
Tính từ 15/3/2025-14/4/2025, trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 12 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm chết 07 người và 09 người bị thương; xảy ra 20 vụ phạm pháp hình sự với 29 đối tượng; phát hiện 18 vụ buôn bán, vận chuyển, tàng trữ ma tuý với 22 đối tượng; xảy ra 02 vụ cháy, không gây thiệt hai về người, thiệt hại về tài sản ước tính 82 triệu đồng./.