Tình hình kinh tế - xã hội tháng Mười năm 2023 trên địa bàn tỉnh diễn ra với xu hướng tích cực hơn ở các ngành, lĩnh vực. Sản xuất nông nghiệp thời tiết thuận lợi, cây trồng đảm bảo khung thời vụ; các hoạt động thương mại, dịch vụ diễn ra sôi động nhất là hoạt động du lịch, riêng công nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Cụ thể tình hình kinh tế - xã hội tháng Mười và 10 tháng năm 2023 trên địa bàn tỉnh như sau:
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản
Nhiệm vụ trọng tâm của sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản trong tháng là tập trung thu hoạch nhanh gọn diện tích lúa Mùa, triển khai sản xuất vụ Đông; dự báo, giám sát và chủ động các biện pháp kiểm soát, phòng trừ dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi. Tăng cường công tác quản lý, bảo vệ và phòng chống cháy rừng; chăm sóc, phòng bệnh và bảo vệ thủy sản trong mùa mưa bão.
1.1. Nông nghiệp
1.1.1. Trồng trọt
Thu hoạch lúa vụ Mùa: Trong tháng, các địa phương tập trung chủ yếu vào thu hoạch lúa và các loại cây trồng vụ Mùa nhằm tránh những thiệt hại do mưa bão gây ra và tạo quỹ đất để sản xuất vụ Đông. Tính đến ngày 18/10/2023, toàn tỉnh đã thu hoạch được trên 20,3 nghìn ha lúa, bằng 65,3% diện tích lúa đã cấy. Diện tích lúa đã thu hoạch tập trung chủ yếu ở các huyện: Yên Khánh 7,5 nghìn ha, Yên Mô 6,5 nghìn ha, Nho Quan 2,9 nghìn ha, Hoa Lư 1,6 nghìn ha... Theo đánh giá sơ bộ, năng suất lúa gieo cấy bình quân chung toàn tỉnh vụ Mùa năm 2023 đạt 54,23 tạ/ha, tăng 0,05% (+ 0,03 tạ/ha) so với cùng vụ năm trước; nguyên nhân năng suất lúa tăng do thời tiết phù hợp, diện tích gieo cấy nằm trong khung thời vụ tốt nhất.
Sản xuất vụ Đông: Vụ Đông năm nay được dự báo sẽ có nhiều thuận lợi như nền nhiệt mùa Đông năm nay sẽ ấm hơn so với trung bình nhiều năm, tạo điều kiện để mở rộng diện tích các cây trồng ưa ấm; giá phân bón có xu hướng giảm; tín hiệu thị trường tiêu thụ các sản phẩm cây vụ Đông cũng được đánh giá có nhiều khả quan, đặc biệt là các sản phẩm như ớt, ngô ngọt, đậu tương, rau...
Tính đến ngày 18/10/2023, toàn tỉnh trồng được gần 2,5 nghìn ha cây vụ Đông, trong đó gồm: 0,7 nghìn ha ngô; 0,1 nghìn ha lạc; 0,1 nghìn ha khoai lang và 1,6 nghìn ha rau, đậu các loại. Diện tích cây vụ Đông đến nay trồng tập trung chủ yếu ở huyện Yên Mô 0,8 nghìn ha, huyện Yên Khánh 0,6 nghìn ha, huyện Nho Quan 0,5 nghìn ha...
1.1.2. Chăn nuôi
Trong tháng, dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm cơ bản được khống chế. Riêng bệnh Dịch tả lợn châu Phi có xu hướng tái phát trở lại ở một ở một số địa phương trong tỉnh. Tính đến ngày 19/10/2023, toàn tỉnh có 23 xã/6 huyện, thành phố có ổ dịch chưa qua 21 ngày. Số lợn bị bệnh phải tiêu hủy lũy kế từ đầu năm đến 19/10/2023 là 7,7 nghìn con, trọng lượng tiêu hủy trên 339 tấn.
Đến thời điểm báo cáo, đàn trâu ước đạt 12,7 nghìn con, tăng 0,3% so với cùng thời điểm năm trước; đàn bò ước đạt 35,3 nghìn con, tăng 0,6%; đàn lợn ước đạt 274,5 nghìn con, tăng 0,8%; đàn gia cầm ước đạt 6,4 triệu con, tăng 2,9%, trong đó đàn gà ước đạt 4,5 triệu con, tăng 2,7% so với cùng thời điểm năm trước.
1.2. Lâm nghiệp
Công tác chăm sóc, quản lý, bảo vệ và phòng cháy, chữa cháy rừng thường xuyên được các ngành, các cấp quan tâm, trong tháng không có vụ cháy rừng nào xảy ra.
Trong tháng Mười, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 63,0 ha, gấp 2,9 lần so với cùng tháng năm trước; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 2,0 nghìn m3, tăng 0,5%; sản lượng củi khai thác ước đạt 1,9 nghìn ste, giảm 2,4%; số cây trồng phân tán ước đạt 62,9 nghìn cây, tăng 1,4%. Tính chung 10 tháng đầu năm nay, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 331,4 ha, gấp 2,0 lần so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 21,3 nghìn m3, tăng 1,0%; sản lượng củi khai thác 19,5 nghìn ste, giảm 2,0%; số cây trồng phân tán ước đạt 587,1 nghìn cây, tăng 1,9%.
1.3. Thủy sản
Trong tháng, nhằm tránh những thiệt hại do mưa bão gây ra, hầu hết các hộ nuôi thủy sản đã chủ động triển khai các biện pháp bảo vệ, chăm sóc diện tích nuôi thả, các loại thủy sản nuôi trồng sinh trưởng và phát triển tốt.
Một số địa phương trong tỉnh đang tiến hành tập trung thu hoạch các con nuôi đạt kích cỡ thương phẩm, đồng thời chăm sóc và áp dụng các biện pháp phòng ngừa dịch bệnh khi giao mùa đối với các ao ương, nuôi tôm trái vụ nói riêng và các con nuôi thủy sản nói chung.
Sản lượng thủy sản tháng Mười ước đạt 5,8 nghìn tấn, tăng 3,2% so với cùng tháng năm trước. Trong đó, sản lượng nuôi trồng ước đạt 5,2 nghìn tấn, tăng 3,1%; sản lượng khai thác ước đạt 0,6 nghìn tấn, tăng 3,8%.
Tính chung lại, sản lượng thủy sản 10 tháng năm nay ước đạt 57,4 nghìn tấn, tăng 4,0% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, sản lượng nuôi trồng ước đạt 51,4 nghìn tấn, tăng 4,1%; sản lượng khai thác ước đạt 6,0 nghìn tấn, tăng 3,8%.
2. Sản xuất công nghiệp
Trong tháng, tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã có những dấu hiệu khả quan hơn nhưng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn.
Chỉ số công nghiệp (IIP) toàn tỉnh tháng Mười ước tính tăng 2,49% so với cùng tháng năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp khai khoáng tăng 8,03%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,10%; ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện tăng 11,42%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 13,25%.
So với tháng trước (tháng 9/2023), chỉ số IIP toàn tỉnh tháng này tăng 10,97%, trong đó ngành công nghiệp khai khoáng giảm 3,52%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,76%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện giảm 3,35%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 2,44%.
Tính chung lại 10 tháng đầu năm 2023 chỉ số IIP toàn tỉnh giảm 2,25% so với cùng kỳ năm 2022, trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 7,94%; công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 2,53%; ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện tăng 1,33%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 11,02%.
Giá trị sản xuất: Tính theo giá so sánh 2010, giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh trong tháng Mười ước đạt 8.697,7 tỷ đồng, tăng 5,2% so với tháng 10/2022. Trong đó: Công nghiệp khai khoáng ước đạt 49,1 tỷ đồng, tăng 9,0%; công nghiệp chế biến, chế tạo 8.543,6 tỷ đồng, tăng 5,1%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện 85,9 tỷ đồng, tăng 12,1%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 19,1 tỷ đồng, tăng 14,1%.
Tính chung lại, giá trị sản xuất công nghiệp 10 tháng đầu năm 2023 toàn tỉnh ước đạt 79.793,5 tỷ đồng, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Công nghiệp khai khoáng ước đạt 548,5 tỷ đồng, tăng 8,6%; công nghiệp chế biến, chế tạo 78.194,3 tỷ đồng, tăng 1,4%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện 880,2 tỷ đồng, tăng 4,9%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 170,5 tỷ đồng, tăng 10,4%.
Sản phẩm công nghiệp chủ yếu: Một số sản phẩm công nghiệp trong tháng Mười năm nay tăng khá so với cùng tháng năm trước như: đá các loại 0,3 triệu m3, tăng 8,0%; dứa đóng hộp 1,2 nghìn tấn, gấp 2,0 lần; nước dứa tươi 0,7 triệu lít, gấp 4,7 lần; hàng thêu 0,3 triệu m2, gấp 7,5 lần; găng tay 0,4 triệu đôi, tăng 2,4%; phân Ure 40,4 nghìn tấn, tăng 15,8%; phân lân nung chảy 9,1 nghìn tấn, tăng 78,4%; kính nổi 33,0 nghìn tấn, tăng 4,4%; linh kiện điện tử 10,0 triệu cái, tăng 51,5%; kính máy ảnh 0,2 triệu cái, gấp 2,0 lần; đồ chơi hình con vật 3,3 triệu con, tăng 40,7%; điện sản xuất 52,9 triệu Kwh, tăng 24,5%; nước máy thương phẩm 2,4 triệu m3, tăng 4,8%;... Bên cạnh đó vẫn có một số sản phẩm giảm sút so với cùng kỳ như: ngô ngọt đóng hộp 0,3 nghìn tấn, giảm 21,8%; nước khoáng không có ga 0,4 triệu lít, giảm 3,6%; quần áo các loại 4,5 triệu cái, giảm 40,2%; giày dép các loại 4,6 triệu đôi, giảm 23,9%; phân NPK 9,5 nghìn tấn, giảm 18,8%; xi măng (kể cả clanke) 0,6 nghìn tấn, giảm 14,5%; modul camera 19,2 triệu cái, giảm 11,1%; tai nghe điện thoại di động 87,0 nghìn cái, giảm 89,3%; xe ô tô 5 chỗ ngồi trở lên 4,6 nghìn chiếc, giảm 18,6%; xe ô tô chở hàng 0,7 nghìn chiếc, giảm 31,6%; cần gạt nước ô tô 0,3 triệu cái, giảm 48,8%;…
Tính chung 10 tháng đầu năm 2023, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ như: đá các loại 2,9 triệu m3, tăng 7,7%; ngô ngọt đóng hộp 2,6 nghìn tấn, tăng 27,0%; dứa đóng hộp 8,9 nghìn tấn, tăng 11,6%; nước dứa tươi 5,8 triệu lít, tăng 65,1%; hàng thêu 1,8 triệu m2, tăng 21,4%; linh kiện điện tử 93,2 triệu cái, tăng 10,6%; kính máy ảnh 1,7 triệu cái, tăng 74,5%; điện sản xuất 0,5 tỷ Kwh, tăng 5,2%; nước máy thương phẩm 24,2 triệu m3, tăng 9,6%;… Tuy nhiên một số sản phẩm lại có mức giảm sút như: quần áo các loại 49,8 triệu cái, giảm 37,6%; giày dép các loại 46,7 triệu đôi, giảm 18,8%; phân Ure 0,3 triệu tấn, giảm 7,1%; phân NPK 68,0 nghìn tấn, giảm 9,9%; xi măng (kể cả clanke) 5,7 triệu tấn, giảm 24,7%; modul camera 184,9 triệu cái, giảm 28,2%; tai nghe điện thoại di động 1,9 triệu cái, giảm 58,7%; xe ô tô 5 chỗ ngồi trở lên 36,7 nghìn chiếc, giảm 14,8%; xe ô tô chở hàng 6,0 nghìn chiếc, giảm 34,0%; cần gạt nước ô tô 4,1 triệu cái, giảm 50,3%; điện thương phẩm 2,0 tỷ Kwh, giảm 3,4%;…
Sản lượng tồn kho một số sản phẩm chủ yếu đến 30/9/2023: Giầy dép 2,4 triệu đôi; đạm ure 19,6 nghìn tấn; phân NPK 33,2 nghìn tấn; phân lân nung chảy 18,4 nghìn tấn; kính xây dựng 79,2 nghìn tấn; xi măng 17,0 nghìn tấn; thanh, que sắt hoặc thép không hợp kim, được cán nóng 10,7 nghìn tấn; bản vi mạch điện tử 19,5 triệu chiếc; camera và linh kiện điện tử 18,0 triệu cái; xe ô tô từ 5 chỗ ngồi trở lên chỗ 2.503 chiếc;...
3. Vốn đầu tư và phát triển
Tổng số vốn đầu tư phát triển tháng Mười năm 2023 toàn tỉnh ước đạt 2.651,0 tỷ đồng, tăng 9,6% so với cùng tháng năm trước. Chia ra: Vốn Nhà nước đạt 586,6 tỷ đồng, tăng 17,5%; vốn ngoài Nhà nước đạt 1.918,0 tỷ đồng, tăng 9,7%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 146,4 tỷ đồng, giảm 15,2%.
Tính chung lại, tổng vốn đầu tư phát triển 10 tháng đầu năm 2023 toàn tỉnh ước đạt 25.954,5 tỷ đồng, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm 2022. Chia ra: Vốn Nhà nước đạt 5.083,1 tỷ đồng, tăng 17,7%; vốn ngoài Nhà nước đạt 19.752,6 tỷ đồng, tăng 12,8%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 1.118,8 tỷ đồng, giảm 63,0%.
Vốn đầu tư thực hiện trong tháng của một số dự án, công trình có khối lượng lớn là:
- Khu vực đầu tư công: Dự án xây dựng tuyến đường ĐT.482 kết nối quốc lộ 1A với quốc lộ 10 và kết nối quốc lộ 10 với quốc lộ 12B ước đạt 40,0 tỷ đồng; dự án xây dựng cơ sở hạ tầng khu du lịch sinh thái Tràng An và các dự án thành phần ước đạt 27,5 tỷ đồng; dự án nâng cấp, chỉnh trang các tuyến đường trục chính và hệ thống thoát nước chống ngập thành phố Tam Điệp ước đạt 11 tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đường Đông - Tây, tỉnh Ninh Bình (Giai đoạn 1) ước đạt 10,0 tỷ đồng; dự án đầu tư xây dựng cầu vượt sông Vân và đường dẫn phía Tây sông Vân ước đạt 10,0 tỷ đồng; dự án nâng cấp, cải tạo, sửa chữa Trụ sở HĐND - UBND huyện Nho Quan ước đạt 7,8 tỷ đồng;…
- Dự án sử dụng vốn ODA: Dự án cải thiện cơ sở hạ tầng đô thị nhằm giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu cho 04 tỉnh ven biển Bắc Trung Bộ - Tiểu dự án cải thiện cơ sở hạ tầng đô thị Phát Diệm, huyện Kim Sơn ước đạt 2,0 tỷ đồng.
- Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Dự án xây dựng nhà xưởng sản xuất, mua sắm tài sản, lắp đặt máy móc thiết bị phục vụ sản xuất camera module của Công ty TNHH MCNEX Vina ước đạt 40,1 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà xưởng phục vụ sản xuất giày của Công ty TNHH Giầy Adora Việt Nam ước đạt 36,5 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà xưởng phục vụ sản xuất giày của Công ty TNHH Giầy Athena Việt Nam ước đạt 34,8 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất đồ chơi trẻ em của Công ty TNHH Master Vina ước đạt 4,2 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất giày của Công ty TNHH Vonora ước đạt 3,5 tỷ đồng;…
Một số dự án, công trình sử dụng vốn ngân sách Nhà nước khởi công mới trong tháng như: Dự án cải tạo nâng cấp tuyến đường từ cầu Việt Nhật đến cống Phát Diệm và tuyến đường trục 2 xóm Mỹ Chính, Mỹ Hóa xã Kim Mỹ với tổng mức đầu tư 170,0 tỷ đồng; dự án xây dựng CSHT khu dân cư mới phường Tây Sơn với tổng mức đầu tư 135,0 tỷ đồng; dự án đầu tư, cải tạo, nâng cấp mặt đường và xây dựng hệ thống thoát nước tuyến đường Chi Lăng, thành phố Tam Điệp với tổng mức đầu tư 75,0 tỷ đồng; dự án xây dựng trường Mầm non xã Ninh Nhất với tổng mức đầu tư 71,0 tỷ đồng; dự án xây dựng cầu qua sông Hệ và tuyến đường dân sinh đến QL1 tránh thành phố Ninh Bình, xã Ninh Vân, huyện Hoa Lư với tổng mức đầu tư là 35,0 tỷ đồng; dự án xử lý cấp bách chống sạt lở tuyến đê sông Bến Đang đoạn từ trạm bơm Sơn Đông đến tổ 12 phường Tân Bình, thành phố Tam Điệp với tổng mức đầu tư là 19,9 tỷ đồng;…
4