Tình hình kinh tế - xã hội tháng Mười năm 2024 trên địa bàn tỉnh tiếp tục diễn ra với xu hướng tích cực ở các ngành, lĩnh vực. Sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá; nông nghiệp duy trì ổn định; thương mại, dịch vụ phát triển và hoạt động du lịch tiếp tục được đẩy mạnh. Cụ thể tình hình kinh tế - xã hội tháng Mười và 10 tháng năm 2024 trên địa bàn tỉnh như sau:
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản
1.1. Nông nghiệp
1.1.1. Trồng trọt
Thu hoạch lúa vụ Mùa: Trong tháng, các địa phương tập trung chủ yếu thu hoạch lúa và các loại cây trồng vụ Mùa nhằm tránh những thiệt hại do mưa, bão gây ra và tạo quỹ đất để sản xuất vụ Đông. Tính đến ngày 30/10/2024, toàn tỉnh đã thu hoạch được trên 20,4 nghìn ha lúa, bằng 65,5% diện tích lúa đã cấy. Diện tích lúa đã thu hoạch tập trung chủ yếu ở các huyện: Yên Khánh 7,6 nghìn ha, Yên Mô 6,5 nghìn ha, Nho Quan 3,1 nghìn ha, Gia Viễn 1,0 nghìn ha... Ước tính năng suất lúa thu hoạch bình quân chung toàn tỉnh vụ Mùa năm 2024 đạt 53,0 tạ/ha, giảm 2,2% (-1,2 tạ/ha) so với cùng vụ năm trước. Nguyên nhân năng suất lúa giảm do ảnh hưởng của thời tiết cực đoan, sâu bệnh, lúa cỏ, nạn chuột phá,... đã ảnh hưởng tới quá trình sinh trưởng và phát triển của cây lúa.
Sản xuất vụ Đông: Tính đến ngày 30/10/2024, toàn tỉnh trồng được trên 4,5 nghìn ha cây vụ Đông, đạt 60,9% kế hoạch, trong đó gồm: 1,0 nghìn ha ngô; 0,2 nghìn ha lạc; 0,3 nghìn ha khoai lang và gần 3,0 nghìn ha rau, đậu các loại... Diện tích cây vụ Đông đến nay trồng tập trung chủ yếu ở huyện Yên Khánh 1,4 nghìn ha, huyện Yên Mô 1,1 nghìn ha, huyện Nho Quan 0,8 nghìn ha, huyện Kim Sơn 0,5 nghìn ha,...
1.1.2. Chăn nuôi
Trong tháng, thời tiết tương đối thuận lợi, đàn vật nuôi phát triển tốt. Đến thời điểm báo cáo, đàn trâu ước đạt 12,8 nghìn con, tăng 0,4% so với cùng thời điểm năm trước; đàn bò ước đạt 35,9 nghìn con, tăng 0,6%; đàn lợn ước đạt 292,3 nghìn con, tăng 3,5%; đàn gia cầm ước đạt 6,8 triệu con, tăng 5,3%, trong đó đàn gà ước đạt 4,8 triệu con, tăng 5,6%.
Tình hình dịch bệnh: Bệnh dịch tả lợn châu Phi có xu hướng tái phát trở lại ở một ở một số địa phương trong tỉnh. Tính đến ngày 30/10/2024, toàn tỉnh còn 03 ổ dịch tại 03 xã: Khánh Cư, huyện Yên Khánh; Kỳ Phú, huyện Nho Quan và Yên Thịnh, huyện Yên Mô chưa qua 21 ngày, tuy nhiên dịch đã cơ bản được kiểm soát, khống chế. Lũy kế tổng số lợn tiêu hủy đến ngày 28/10/2024 là 960 con, trọng lượng tiêu hủy là trên 49,7 tấn.
Hiện nay, các địa phương tiếp tục triển khai thực hiện tiêm phòng vụ Thu Đông cho đàn gia súc, gia cầm. Tính đến ngày 29/10/2024, đã tiêm được 12.934 con phòng bệnh lở mồm long móng trên đàn trâu bò, đạt 44,5% kế hoạch trong diện tiêm; vắc xin phòng bệnh Cúm gia cầm trên đàn gia cầm: Tiêm được 1,1 triệu con (tương đương 1,8 triệu liều), đạt 81,6% kế hoạch trong diện tiêm.
1.2. Lâm nghiệp
Công tác chăm sóc, quản lý, bảo vệ và phòng cháy, chữa cháy rừng thường xuyên được các ngành, các cấp quan tâm, trong tháng không có vụ cháy rừng nào xảy ra.
Trong tháng Mười, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 17,3 ha, bằng 65,8% cùng tháng năm trước; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 2,2 nghìn m3, tăng 1,6%; sản lượng củi khai thác ước đạt 1,9 nghìn ste, tăng 0,2%; số cây lâm nghiệp trồng phân tán ước đạt 94,0 nghìn cây, tăng 1,2%. Tính chung 10 tháng đầu năm nay, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 263,2 ha, giảm 2,9% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 21,9 nghìn m3, tăng 2,1%; sản lượng củi khai thác 19,8 nghìn ste, tăng 1,1%; số cây trồng phân tán ước đạt 785,4 nghìn cây, tăng 2,6%.
1.3. Thủy sản
Trong tháng, các hộ nuôi thuỷ sản chủ động triển khai các biện pháp bảo vệ, chăm sóc diện tích nuôi thả, áp dụng các biện pháp phòng ngừa dịch bệnh khi giao mùa, các loại thủy sản nuôi trồng sinh trưởng và phát triển tốt.
Sản lượng thủy sản tháng Mười ước đạt 6,3 nghìn tấn, tăng 5,0% (+ 0,3 nghìn tấn) so với cùng tháng năm trước. Chia ra, sản lượng nuôi trồng ước đạt 5,7 nghìn tấn, tăng 5,3% (+ 0,3 nghìn tấn); sản lượng khai thác ước đạt 0,6 nghìn tấn, tăng 2,3% (+ 0,01 nghìn tấn).
Tính chung lại, sản lượng thủy sản 10 tháng ước đạt 60,1 nghìn tấn, tăng 4,1% (+ 2,4 nghìn tấn) so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: Sản lượng cá ước đạt 31,5 nghìn tấn, tăng 3,6% ( +1,1 nghìn tấn), sản lượng tôm 3,8 nghìn tấn, tăng 12,7% (+ 0,4 nghìn tấn), thuỷ sản khác ước đạt 24,8 nghìn tấn, tăng 3,5% (+ 0,9 nghìn tấn). Sản lượng nuôi trồng ước đạt 53,5 nghìn tấn, tăng 4,2% (+2,2 nghìn tấn); sản lượng khai thác ước đạt 6,6 nghìn tấn, tăng 3,3% (+ 0,2 nghìn tấn).
2. Sản xuất công nghiệp
Hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh trong tháng Mười tiếp tục ghi nhận đà phục hồi tích cực. Tính chung trong 10 tháng đầu năm nay, sản xuất công nghiệp của tỉnh đạt mức tăng khá so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) toàn tỉnh tháng Mười ước tính tăng 8,19% so với cùng tháng năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 4,07%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,89%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,75%; riêng sản xuất và phân phối điện giảm 9,43%.
So với tháng trước (tháng 9/2024), chỉ số IIP toàn tỉnh tháng này tăng 8,29%, trong đó khai khoáng tăng 2,75%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,66%; sản xuất và phân phối điện tăng 0,29%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 1,48%.
Tính chung lại 10 tháng đầu năm 2024 chỉ số IIP toàn tỉnh tăng 11,22% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó khai khoáng tăng 14,51%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,86%; sản xuất và phân phối điện tăng 22,56%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,34%.
Giá trị sản xuất: Tính theo giá so sánh 2010, giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh trong tháng Mười ước đạt 9.651,9 tỷ đồng, tăng 9,3% so với tháng 10/2023. Trong đó: Khai khoáng ước đạt 61,5 tỷ đồng, tăng 8,0%; công nghiệp chế biến, chế tạo 9.485,6 tỷ đồng, tăng 9,5%; sản xuất và phân phối điện 83,2 tỷ đồng, giảm 5,2%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 21,6 tỷ đồng, tăng 7,4%.
Tính chung lại, giá trị sản xuất công nghiệp 10 tháng đầu năm 2024 toàn tỉnh ước đạt 84.054,4 tỷ đồng, tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Khai khoáng ước đạt 955,3 tỷ đồng, tăng 16,5%; công nghiệp chế biến, chế tạo 81.973,1 tỷ đồng, tăng 9,2%; sản xuất và phân phối điện 943,8 tỷ đồng, tăng 19,5%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 182,2 tỷ đồng, tăng 5,2%.
Sản phẩm công nghiệp chủ yếu: Một số sản phẩm công nghiệp trong tháng Mười năm nay tăng khá so với cùng tháng năm trước như: Dứa đóng hộp 0,7 nghìn tấn, tăng 21,4%; thức ăn gia súc 2,1 nghìn tấn, tăng 9,6%; quần áo các loại 4,7 triệu cái, tăng 24,6%; phân lân nung chảy 10,1 nghìn tấn, tăng 46,4%; kính nổi 38,2 nghìn tấn, tăng 12,0%; clanke 65,0 nghìn tấn, tăng 27,0%; xe ô tô 5 chỗ ngồi trở lên 4,6 nghìn chiếc, tăng 11,8%; xe ô tô chở hàng 0,8 nghìn chiếc, tăng 80,2%; ghế dùng cho xe có động cơ 21,1 nghìn chiếc, tăng 35,3%; cần gạt nước ô tô 0,6 triệu cái, gấp 2,4 lần; búp bê 14,0 triệu con, tăng 28,4%; điện thương phẩm 0,2 tỷ Kwh, tăng 11,8%; nước máy thương phẩm 2,6 triệu m3, tăng 6,8%;... Bên cạnh đó vẫn có một số sản phẩm giảm sút so với cùng kỳ như: Nước khoáng không có ga 0,4 triệu lít, giảm 1,6%; hàng thêu 53,5 nghìn m2, giảm 69,8%; phân NPK 7,0 nghìn tấn, giảm 45,7%; thép cán các loại 25,1 nghìn tấn, giảm 12,5%; modul camera 14,9 triệu cái, giảm 14,4%; tai nghe điện thoại di động 5,0 nghìn cái, giảm 97,8%; kính máy ảnh 0,2 triệu cái, giảm 1,9%; đồ chơi hình con vật 2,0 triệu con, giảm 28,6%; điện sản xuất 50,7 triệu Kwh, giảm 22,2%;…
Tính chung 10 tháng đầu năm 2024, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ như: Đá các loại 3,4 triệu m3, tăng 13,8%; giày dép các loại 55,5 triệu đôi, tăng 17,4%; phân urê 0,4 triệu tấn, tăng 23,9%; phân NPK 97,6 nghìn tấn, tăng 36,7%; phân lân nung chảy 0,2 triệu tấn, tăng 40,3%; thép cán các loại 0,3 triệu tấn, tăng 26,2%; kính máy ảnh 2,1 triệu cái, tăng 16,1%; xe ô tô 5 chỗ ngồi trở lên 40,1 nghìn chiếc, tăng 12,3%; xe ô tô chở hàng 6,6 nghìn chiếc, tăng 12,5%; ghế ngồi dùng cho xe có động cơ 0,2 triệu chiếc, tăng 22,5%; cần gạt nước ô tô 4,9 triệu cái, tăng 21,5%; đồ chơi hình con vật 24,8 triệu con, tăng 47,1%; điện sản xuất 0,6 tỷ Kwh, tăng 28,6%; điện thương phẩm 2,3 tỷ Kwh, tăng 14,7%;… Tuy nhiên một số sản phẩm lại có mức giảm sút như: Dứa đóng hộp 7,9 nghìn tấn, giảm 3,9%; thức ăn gia súc 21,7 nghìn tấn, giảm 12,9%; hàng thêu 0,7 triệu m2, giảm 56,3%; quần áo các loại 46,2 triệu cái, giảm 6,9%; xi măng (kể cả clanke) 5,4 triệu tấn, giảm 4,6%; cấu kiện nhà lắp sẵn bằng kim loại 0,3 nghìn tấn, giảm 41,7%; linh kiện điện tử 90,7 triệu cái, giảm 2,1%; modul camera 140,9 triệu cái, giảm 22,9%; tai nghe điện thoại di động 0,4 triệu cái, giảm 79,8%; búp bê 160,3 triệu con, giảm 15,7%;…
Sản lượng tồn kho một số sản phẩm chủ yếu đến 30/9/2024: Giày dép 2,0 triệu đôi; đạm urê 24,6 nghìn tấn; phân NPK 25,3 nghìn tấn; phân lân nung chảy 11,3 nghìn tấn; kính nổi 79,4 nghìn tấn; xi măng 53,8 nghìn tấn; thanh, que sắt hoặc thép không hợp kim, được cán nóng 19,9 nghìn tấn; bản vi mạch điện tử 20,6 triệu chiếc; camera và linh kiện điện tử 15,2 triệu cái; xe ô tô lắp ráp 855 chiếc;...
3. Vốn đầu tư thực hiện
Tổng số vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tháng Mười năm 2024 toàn tỉnh ước đạt 3.144,0 tỷ đồng, tăng 13,3% so với cùng tháng năm trước. Chia ra: Vốn Nhà nước đạt 712,2 tỷ đồng, tăng 1,5%; vốn ngoài Nhà nước đạt 2.304,9 tỷ đồng, tăng 21,4%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 126,9 tỷ đồng, giảm 27,1%.
Tính chung lại, tổng vốn đầu tư thực hiện trong 10 tháng đầu năm 2024 toàn tỉnh ước đạt 27.182,7 tỷ đồng, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm 2023. Chia ra: Vốn Nhà nước đạt 5.465,3 tỷ đồng, tăng 4,9%; vốn ngoài Nhà nước đạt 20.223,8 tỷ đồng, tăng 2,3%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 1.493,6 tỷ đồng, tăng 15,7%.
Vốn đầu tư thực hiện trong tháng của một số dự án, công trình có khối lượng lớn là:
- Khu vực đầu tư công: Dự án xây dựng CSHT khu du lịch sinh thái Tràng An và các dự án thành phần ước đạt gần 42,2 tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đường Đông - Tây, tỉnh Ninh Bình (giai đoạn 1) ước đạt 30 tỷ đồng; dự án xử lý sạt lở bờ Tả sông Vạc đoạn từ K19+300 - K22+000 và xử lý kè Hữu sông Đáy đoạn từ K70+198 - K70+518, huyện Kim Sơn ước đạt trên 28,9 tỷ đồng; dự án xây dựng Trường Đại học Hoa Lư (giai đoạn 2) ước đạt gần 28,0 tỷ đồng; dự án xây dựng kênh kết hợp đường Vạn Hạnh (giai đoạn 1) ước đạt gần 25,7 tỷ đồng; dựa án cụm công trình thủy lợi Nam Sông Vân ước đạt trên 24,5 tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đường bộ ven biển qua tỉnh Ninh Bình (giai đoạn 2) ước đạt 20,5 tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đường Đinh Tiên Hoàng (giai đoạn 2) ước đạt 14,1 tỷ đồng;…
- Khu vực sử dụng vốn ODA: Dự án cải thiện cơ sở hạ tầng đô thị nhằm giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu cho 04 tỉnh ven biển Bắc Trung Bộ - Tiểu dự án cải thiện cơ sở hạ tầng đô thị Phát Diệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình ước đạt 15,8 tỷ đồng.
- Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài: Dự án xây dựng nhà xưởng sản xuất, mua sắm tài sản, lắp đặt máy móc thiết bị phục vụ sản xuất camera module của Công ty TNHH MCNEX Vina ước đạt 40,9 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc thiết bị của Công ty TNHH Sejung Việt Nam ước đạt 15,5 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà xưởng sản xuất giày của Công ty TNHH Giầy Athena Việt Nam ước đạt 8,9 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà xưởng sản xuất giày của Công ty TNHH Ever Great International ước đạt 5,8 tỷ đồng;…
Một số công trình, dự án khởi công trong tháng: Dự án xây dựng hệ thống chiếu sáng, vỉa hè, rãnh thoát nước đường ĐT.477 đoạn từ Km1+500 (Nhà máy xi măng The Vissai) đến Km8+000 (ngã ba đường tránh thị trấn Me), huyện Gia Viễn với tổng mức đầu tư 175 tỷ đồng; dự án xây dựng CSHT phục vụ đấu giá quyền sử dụng đất tại khu dân cư Ngũ Tư Điền, xã Khánh Nhạc (giai đoạn 1) với tổng mức đầu tư 95 tỷ đồng; dự án kiên cố hóa kênh tưới tiêu kết hợp đường cứu hộ cứu nạn từ đường 481C đến đê sông Đáy xã Khánh Trung, huyện Yên Khánh với tổng mức đầu tư 70 tỷ đồng; dự án đầu tư xây dựng CSHT khu tái định cư xã Khánh Hòa phục vụ giải phóng mặt bằng dự án thành phần đầu tư xây dựng tuyến đường kết nối giữa đường cao tốc cầu Giẽ - Ninh Bình với Quốc lộ 1 với tổng mức đầu tư là 54 tỷ đồng;…
4. Thương mại, dịch vụ và giá cả
4.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa trong tháng Mười ước đạt gần 7.210,9 tỷ đồng, tăng 27,8% so với tháng 10/2023. Lũy kế 10 tháng đầu năm 2024, doanh thu bán lẻ hàng hoá toàn tỉnh ước đạt trên 66.333,4 tỷ đồng, tăng 26,1% so với cùng kỳ năm trước. Tất cả 12/12 nhóm hàng hóa đều có doanh thu bán lẻ tăng, trong đó một số nhóm đạt mức tăng cao như: Lương thực, thực phẩm ước đạt 24.674,6 tỷ đồng, tăng 27,7%; hàng may mặc 3.322,5 tỷ đồng, tăng 31,4%; vật phẩm văn hóa giáo dục 419,9 tỷ đồng, tăng 51,0%; gỗ và vật liệu xây dựng 14.945,6 tỷ đồng, tăng 27,9%; xăng, dầu các loại 6.312,9 tỷ đồng, tăng 27,0%; nhiên liệu khác (trừ xăng, dầu) 592,3 tỷ đồng, tăng 35,5%; hàng hóa khác 936,0 tỷ đồng, tăng 41,8%; doanh thu dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 3.165,5 tỷ đồng, tăng 35,9%.
Ước tính doanh thu hoạt động lưu trú, ăn uống trong tháng Mười năm nay đạt gần 806,8 tỷ đồng, tăng 21,0% so với cùng kỳ năm 2023; doanh thu dịch vụ du lịch lữ hành ước đạt 3,2 tỷ đồng, giảm 52,2%; doanh thu một số ngành dịch vụ khác ước đạt 520,0 tỷ đồng, tăng 6,1%. Lũy kế 10 tháng đầu năm, doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống thực hiện trên toàn tỉnh ước đạt trên 7.807,4 tỷ đồng, tăng 28,1% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ du lịch lữ hành ước đạt trên 84,5 tỷ đồng, tăng 56,7%; doanh thu một số ngành dịch vụ khác ước đạt trên 5.088,1 tỷ đồng, tăng 11,9%.
4.2. Chỉ số giá
Chỉ số giá tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ chung (CPI) trên địa bàn tỉnh trong tháng Mười vẫn duy trì mức tăng từ các tháng trước. So với tháng trước, CPI tăng 0,21%; so với tháng 12 năm trước, CPI tăng 2,94% và so với tháng 10/2023, CPI tăng 3,24%. Tính chung lại, CPI bình quân 10 tháng năm 2024 tăng 4,17% so với cùng kỳ năm 2023.
Trong mức tăng 0,21% của CPI tháng 10/2024 so với tháng trước, có 06 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, 04 nhóm giữ chỉ số giá ổn định, duy nhất có 01 nhóm có chỉ số giá giảm. Sáu nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,73%, trong đó: Lương thực tăng 1,67% chủ yếu do giá gạo và giá khoai lang tăng khi xuất khẩu các mặt hàng này tiếp tục tăng (giá gạo tẻ thường tăng 2,76%; giá gạo tẻ ngon tăng 3,47%; giá khoai lang tăng 5,38%); thực phẩm tăng 0,87% chủ yếu do tác động của giá nhóm rau tươi, khô và chế biến tăng 6,6% khi một số loại rau, củ, quả chưa đến vụ thu hoạch nên nguồn cung giảm dẫn đến giá tăng cao như: Bắp cải tăng 15,23%, su hào tăng 5,09%, cà chua tăng 9,75%, khoai tây tăng 7,79%, rau muống tăng 6,57%, đỗ quả tươi tăng 8,32%, rau dạng quả, củ tăng 9,62%...; ăn uống ngoài gia đìnhgiữ ổn định; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,78% do giá thuốc lá tăng 2,49%; nhóm giao thông tăng 0,49% do trong tháng Mười giá xăng, dầu được điều chỉnh tăng bốn lần liên tiếp, theo đó giá xăng đã tăng 1,0%, giá dầu diezel tăng 2,27% kéo giá nhóm nhiên liệu tăng 0,99%, cùng với giá nhóm dịch vụ giao thông công cộng tăng 2,46% do vận tải hành khách bằng đường hàng không tăng cao 32,75%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,28% do nhu cầu mua sắm của người dân tăng khi thời tiết chuyển mùa; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,03% và nhóm hàng hóa và giải trí khác tăng 0,02%. Bốn nhóm giữ chỉ số giá ổn định gồm: Nhóm thuốc và dịch vụ y tế; nhóm bưu chính viễn thông, nhóm giáo dục và nhóm văn hóa, giải trí và du lịch. Duy nhất nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng có chỉ số giá giảm 0,74% do nhu cầu sử dụng điện của người dân giảm, dẫn đến giá điện sinh hoạt bình quân trong tháng giảm 4,43%.
CPI bình quân 10 tháng đầu năm 2024 tăng 4,17% so với cùng kỳ năm 2023. Tất cả 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ đều có chỉ số giá tăng, cụ thể: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 5,3% (lương thực tăng 17,45%, thực phẩm tăng 5,38%, ăn uống ngoài gia đình tăng 0,47%); nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,15%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 5,51%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 4,04%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,44%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 8,55%; nhóm giao thông tăng 0,27%; nhóm bưu chính viễn thông tăng 0,06%; nhóm giáo dục tăng 2,3%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 4,1% và nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 7,39%.
Chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ: Chỉ số giá vàng tháng Mười tiếp tục ghi nhận mức tăng cao 7,49% so với tháng trước, tăng 36,7% so với tháng 12/2023 và tăng 44,04% so với cùng tháng năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng này tăng 0,66% so với tháng 9/2024, tăng 3,12% so với tháng 12/2023 và tăng 2,21% so với tháng 10/2023. Bình quân 10 tháng đầu năm 2024, chỉ số giá vàng tăng 30,66%, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 5,18%.
4.3. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Xuất khẩu: Tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa toàn tỉnh trong tháng Mười ước thực hiện trên 270,5 triệu USD, tăng 6,7% so với tháng Mười năm 2023.
Trong 10 tháng năm 2024, tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa ước đạt trên 2.831,0 triệu USD, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn là: Giày dép các loại ước đạt 810,1 triệu USD; camera và linh kiện 583,5 triệu USD; xi măng và clanke 483,9 triệu USD; quần áo các loại 273,8 triệu USD; linh kiện điện tử 134,5 triệu USD, linh kiện phụ tùng ô tô các loại 117,0 triệu USD...
Mười tháng năm nay, một số mặt hàng có mức xuất khẩu tăng khá so với cùng kỳ như: Hàng thêu ren 254,3 nghìn chiếc, tăng 71,0%; giày dép các loại 55,7 triệu đôi, tăng 16,5%; kính quang học 2,1 triệu chiếc, tăng 16,0%; linh kiện điện tử 134,5 triệu USD, tăng 36,4%; đồ chơi trẻ em 15,6 triệu con, tăng 53,8%; linh kiện phụ tùng ô tô các loại 117,0 triệu USD, tăng 51,2%; túi nhựa 1,9 nghìn tấn, tăng 76,5%;... Tuy nhiên một số mặt hàng xuất khẩu lại giảm sút so với cùng kỳ như: Dứa, dưa chuột đóng hộp 7,1 nghìn tấn, giảm 16,6%; nước dứa cô đặc 1,6 nghìn tấn, giảm 15,6%; xi măng và clanke 12,1 triệu tấn, giảm 14,8%; thảm cói 42,7 nghìn m2, giảm 51,3%; camera và linh kiện 141,1 triệu sản phẩm, giảm 25,0%; quần áo các loại 42,8 triệu chiếc, giảm 3,0%.
Nhập khẩu: Tổng giá trị nhập khẩu hàng hóa trong tháng Mười ước thực hiện 290,0 triệu USD, tăng 15,8% so với cùng tháng năm 2023.
Tính chung lại, 10 tháng đầu năm nay tổng giá trị nhập khẩu hàng hóa ước đạt gần 2.661,4 triệu USD, tăng 15,2% so với cùng kỳ năm trước. Trị giá các nhóm mặt hàng nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn là: Linh kiện phụ tùng ô tô các loại 796,6 triệu USD; linh kiện điện tử 705,5 triệu USD; phụ liệu sản xuất giày, dép 527,4 triệu USD; vải may mặc các loại 123,1 triệu USD; ô tô 74,4 triệu USD.
4.4. Vận tải hành khách và hàng hóa
Vận tải hành khách: Ước thực hiện trong tháng Mười đạt trên 4,6 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 17,6% so với tháng 10/2023 và luân chuyển trên 212,7 triệu lượt khách.km, tăng 13,5%. Lũy kế 10 tháng đầu năm 2024, khối lượng hành khách vận chuyển thực hiện toàn tỉnh ước đạt gần 43,7 triệu lượt khách, tăng 20,9% và luân chuyển trên 2.026,0 triệu lượt khách.km, tăng 17,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vận tải đường bộ ước đạt 34,8 triệu lượt khách, tăng 21,2% và 1.991,6 triệu lượt khách.km, tăng 17,4%; vận tải đường thủy nội địa 8,9 triệu lượt khách, tăng 19,3% và 34,4 triệu lượt khách.km, tăng 17,6%.
Vận tải hàng hóa: Trong tháng Mười, khối lượng hàng hóa vận chuyển toàn tỉnh ước thực hiện gần 15,1 triệu tấn, tăng 13,3% và luân chuyển trên 2.063,5 triệu tấn.km, tăng 14,3% so với cùng tháng năm trước. Tính chung cả 10 tháng, khối lượng hàng hoá vận chuyển toàn tỉnh đạt trên 141,4 triệu tấn, tăng 20,7% và luân chuyển trên 19.008,6 triệu tấn.km, tăng 21,4% so với 10 tháng đầu năm 2023. Trong đó: Vận tải đường bộ ước đạt 51,4 triệu tấn, tăng 20,5% và 2.109,3 triệu tấn.km, tăng 19,3%; vận tải đường thủy nội địa 80,3 triệu tấn, tăng 20,1% và 11.661,5 triệu tấn.km, tăng 19,7%; vận tải biển 9,7 triệu tấn, tăng 27,0% và 5.237,8 triệu tấn.km, tăng 26,3%.
Doanh thu vận tải: Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải toàn tỉnh thực hiện trong tháng này ước đạt gần 1.796,8 tỷ đồng, tăng 14,0% so với cùng tháng năm trước. Tính trong 10 tháng đầu năm, doanh thu hoạt động vận tải toàn tỉnh ước đạt trên 16.767,2
tỷ đồng, tăng 19,9% so với 10 tháng đầu năm 2023. Trong đó phân theo loại hình vận tải: Vận tải hành khách ước đạt 2.029,3 tỷ đồng, tăng 19,5%; vận tải hàng hóa 13.056,2 tỷ đồng, tăng 20,1%; hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 1.572,2 tỷ đồng, tăng 19,2%; bưu chính chuyển phát 109,5 tỷ đồng, tăng 14,2%.
4.5. Hoạt động du lịch
Trong tháng, trên địa bàn tỉnh tổ chức nhiều sự kiện thu hút đông đảo khách du lịch đến thăm quan tại Ninh Bình như: Lễ hội ẩm thực du lịch Ninh Bình, Lễ hội Khinh khí cầu Tràng an - Cúc Phương,...
Ước tính số lượt khách đến các điểm tham quan, du lịch trên địa bàn tỉnh trong tháng Mười đạt 386,5 nghìn lượt khách, tăng 11,9% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: Khách trong nước 312,3 nghìn lượt, tăng 5,1%; khách quốc tế 74,2 nghìn lượt, tăng 54,1%. Tổng số lượt khách nghỉ tại các cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh ước đạt trên 137,5 nghìn lượt khách, tăng 7,7%; số ngày khách lưu trú ước đạt 167,5 nghìn ngày khách, tăng 2,2%. Doanh thu du lịch trong tháng ước đạt 511,8 tỷ đồng, tăng 9,7% so với cùng tháng năm trước.
Tính chung 10 tháng năm nay, số lượt khách đến các điểm tham quan, du lịch trên địa bàn tỉnh ước đạt 7.683,6 nghìn lượt khách, tăng 30,9% so với 10 tháng năm 2023. Chia ra: Khách trong nước 6.704,6 nghìn lượt khách, tăng 21,3%; khách quốc tế 979,0 nghìn lượt, gấp 2,8 lần. Tổng số lượt khách nghỉ tại các cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh ước đạt 1.649,4 nghìn lượt khách, tăng 50,3%; số ngày khách lưu trú ước đạt 1.876,8 nghìn ngày khách, tăng 30,8%. Doanh thu du lịch 10 tháng ước đạt gần 7.773,4 tỷ đồng, tăng 40,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu lưu trú 681,4 tỷ đồng, tăng 24,7%; doanh thu ăn uống 3.877,2 tỷ đồng, tăng 38,0%.
5. Một số vấn đề xã hội
5.1. Văn hoá thông tin
Hoạt động văn hóa thông tin trong tháng diễn ra các hoạt động văn hóa, văn nghệ chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn và các sự kiện trọng đại của đất nước cũng như của địa phương như: Kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam 20/10; kỷ niệm Ngày quốc tế Người cao tuổi 01/10; Ngày Doanh nhân Việt Nam 13/10; kỷ niệm 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969-2024), 65 năm Bác Hồ về thăm Ninh Bình (1959-2024)…. Các hoạt động được tổ chức dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng như: Chăng, treo băng rôn, khẩu hiệu, tổ chức hội thi, biểu diễn nghệ thuật, thi đấu thể thao...
Trong tháng, Nhà hát Chèo thực hiện 18 buổi biểu diễn, chương trình nghệ thuật phục vụ nhiệm vụ chính trị và Nhân dân trong tỉnh. Trung tâm văn hóa tỉnh đã thực hiện 44 buổi chiếu phim lưu động phục vụ khán giả tại một số địa phương trong tỉnh. Thư viện tỉnh thực hiện luân chuyển 65,2 nghìn lượt sách, báo, tạp chí phục vụ trên 20,1 nghìn lượt bạn đọc. Bảo tàng tỉnh đón tiếp và hướng dẫn 217 lượt khách tham quan.
5.2. Thể dục thể thao
Hoạt động thể thao trong tháng tiếp tục duy trì công tác đào tạo, huấn luyện nâng cao thành tích cho vận động viên tại Trung tâm huấn luyện và thi đấu thể dục thể thao. Bên cạnh đó, cử các đoàn vận động viên (VĐV) tham gia thi đấu đạt 30 huy chương các loại, gồm: 05 huy chương Vàng, 15 huy chương Bạc và 10 huy chương Đồng. Đoàn VĐV Bóng chuyền nữ LPBank Ninh Bình tham dự Giải Vô địch Bóng chuyền các CLB nữ Châu Á năm 2024 tại Thái Lan xếp hạng Nhì.
Thể thao quần chúng: Nhiều giải thể thao quần chúng được tổ chức thu hút đông đảo mọi tầng lớp nhân dân tham gia như: Giải bóng bàn Cúp Báo Ninh Bình lần thứ XVIII, năm 2024; Giải Cầu lông, Bóng bàn Cán bộ, CCVCLĐ Công đoàn viên chức tỉnh Ninh Bình năm 2024; Giải thể thao Đảng bộ khối cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh Ninh Bình năm 2024; Giải cầu lông các CLB cúp phát thanh và truyền hình tỉnh Ninh Bình lần thứ XXVIII năm 2024; các trận giao hữu bóng đá trên sân vận động tỉnh.
5.3. Hoạt động y tế [1]
Trong tháng, ngành Y tế đã chủ động giám sát dịch bệnh tại các bệnh viện và cộng đồng, phát hiện sớm các trường hợp mắc bệnh truyền nhiễm. Theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình, kịp thời ứng phó với dịch bệnh không để dịch bệnh lớn xảy ra; thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch bệnh và vệ sinh môi trường, khắc phục hậu quả sau Cơn bão số 3.
Trong tháng, hầu hết các bệnh truyền nhiễm có trường hợp mắc giảm so với cùng kỳ năm 2023. Một số bệnh có số trường hợp mắc tăng: 749 trường hợp mắc cúm, 01 trường hợp mắc ho gà. Xảy ra 32 ca ngộ độc thực phẩm lẻ tẻ, không có tử vong do ngộ độc thực phẩm.
Công tác khám chữa bệnh luôn được quan tâm, duy trì và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác khám chữa bệnh, đáp ứng tốt nhu cầu khám chữa bệnh của Nhân dân. Tại các cơ sở y tế trong tỉnh đã khám bệnh cho 104,4 nghìn lượt bệnh nhân, điều trị nội trú cho 16,1 nghìn lượt; khám thai gần 7,0 nghìn lượt, khám phụ khoa 2,3 nghìn lượt, đặt dụng cụ tử cung 241 ca, triệt sản 09 ca.
Cũng trong tháng, đã phát hiện 01 trường hợp nhiễm mới HIV, có 02 trường hợp tử vong do nhiễm HIV/AIDS. Lũy tích số người nhiễm HIV tính đến nay là 2.848 người, trong đó còn sống 1.467 người.
5.4. Giáo dục, đào tạo
Trong tháng, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh đã tổ chức thành công Kỳ thi chọn học sinh giỏi THPT cấp tỉnh năm học 2024-2025. Kết quả có 265/388 thí sinh dự thi 10 môn đạt giải, trong đó có 20 giải Nhất, 87 giải Nhì, 84 giải Ba và 74 giải Khuyến khích. Thành lập Đội tuyển học sinh giỏi tỉnh tham dự Kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia THPT năm học 2024-2025, gồm 100 học sinh tham gia 10 môn, mỗi môn 10 học sinh.
Phối hợp với các sở, ban ngành của tỉnh và Ngân hàng Lộc Phát tổ chức thành công Chương trình “Chắp cánh ước mơ” của Quỹ khuyến học, khuyến tài Đinh Bộ Lĩnh. Tại Chương trình đã trao thưởng cho 422 lượt học sinh, sinh viên là con em tỉnh Ninh Bình đạt thành tích xuất sắc trong học tập, nghiên cứu khoa học, thể dục thể thao, với tổng số tiền thưởng gần 1,7 tỷ đồng.
5.5. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội[2]
Trong tháng, lực lượng an ninh triển khai đồng bộ các biện pháp công tác, nắm chắc tình hình, quản lý chặt chẽ các đối tượng có tiền án, tiền sự, đối tượng ma túy, các đối tượng có biểu hiện, dấu hiệu vi phạm pháp luật để quản lý, phòng ngừa; xây dựng kế hoạch, phòng ngừa, đấu tranh quyết liệt với tội phạm đánh bạc, tổ chức đánh bạc trên không gian mạng; tổ chức tập huấn, diễn tập phòng cháy, chữa cháy; tăng cường giám sát, xử lý các vi phạm trật tự an toàn giao thông qua hệ thống camera giám sát...
Tính từ ngày 15/9/2024 đến ngày 14/10/2024 toàn tỉnh đã xảy ra 21 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm chết 10 người và bị thương 16 người; xử lý 32 vụ phạm pháp hình sự với 35 đối tượng; phát hiện và xử lý 25 vụ buôn bán, vận chuyển và tàng trữ chất ma túy với 35 đối tượng; không xảy ra vụ cháy nổ./.