Hôm nay, thứ 7 14/09/2024
Tìm kiếm:  

THÔNG TIN THỐNG KÊ THÁNG


1. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản

Trong tháng, các địa phương đã hoàn thành việc thu hoạch các loại cây trồng vụ Xuân, tiếp tục triển khai nhiệm vụ sản xuất vụ Mùa; tập trung phòng chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm và thủy sản; tăng cường công tác bảo vệ, phòng chống cháy rừng và chủ động triển khai các biện pháp để giảm thiểu thiệt hại do ảnh hưởng của mưa, bão.

1.1. Nông nghiệp

1.1.1. Trồng trọt

Thu hoạch lúa vụ Đông Xuân: Năng suất gieo cấy lúa vụ Đông Xuân bình quân toàn tỉnh đạt 66,86 tạ/ha, tăng 0,1% so với cùng vụ năm trước; sản lượng lúa đạt 264,4 nghìn tấn, giảm 0,1% do diện tích gieo cấy lúa trong vụ giảm 0,2%.

Sản xuất vụ Mùa: Trong tháng, các địa phương trong tỉnh tiếp tục cấy lúa và trồng màu vụ Mùa. Tính đến ngày 17/7/2024, diện tích làm đất lần 2 đạt gần 30,5 nghìn ha, bằng 98,1% kế hoạch gieo cấy lúa vụ Mùa toàn tỉnh; diện tích lúa đã cấy toàn tỉnh đạt 23,4 nghìn ha, bằng 75,5% kế hoạch, trong đó: Huyện Yên Khánh 7,6 nghìn ha; huyện Yên Mô 6,5 nghìn ha; huyện Nho Quan 3,0 nghìn ha; huyện Kim Sơn 2,1 nghìn ha;...

Trong vụ, các địa phương tăng cường ứng dụng khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh cơ giới hóa đồng bộ các khâu sản xuất, xây dựng các mô hình sản xuất lúa chất lượng cao, rau màu theo hướng hữu cơ, mở rộng liên kết với các doanh nghiệp. Vụ Mùa năm nay, thời tiết diễn biến phức tạp, khó lường, trong tháng trên địa bàn tỉnh đã xảy ra mưa lớn kéo dài gây ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp.

Diện tích cây màu đã trồng tính đến ngày 17/7/2024 đạt 1.987 ha, trong đó: Cây ngô 530 ha; khoai lang 49 ha; lạc 152 ha; đậu tương 43 ha; rau đậu các loại và cây màu khác 1.213 ha.

1.1.2. Chăn nuôi

Tổng đàn vật nuôi trên địa bàn tỉnh tháng 7/2024 có mức tăng nhẹ so với cùng thời điểm năm trước. Tại thời điểm báo cáo, đàn trâu ước đạt 12,9 nghìn con, tăng 0,2% (+ 0,03 nghìn con); đàn bò ước đạt 35,5 nghìn con, tăng 0,3%    (+ 0,1 nghìn con); đàn lợn ước đạt 288,2 nghìn con, tăng 3,7% (+ 10,3 nghìn con); đàn gia cầm ước đạt 6,8 triệu con, tăng 4,3% (+ 0,3 triệu con), trong đó đàn gà ước đạt 4,6 triệu con, tăng 4,1% (+ 0,2 triệu con).  

 Tình hình dịch bệnh: Trong tháng, các cấp, các ngành tiếp tục thực hiện kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo công tác phòng chống dịch tả lợn Châu Phi tại các địa phương. Tính đến ngày 21/7/2024, toàn tỉnh còn 08 xã thuộc 04 huyện, thành phố có ổ dịch tả lợn Châu Phi chưa qua 21 ngày. Cụ thể, huyện Yên Mô 01 xã, thành phố Tam Điệp 02 xã, huyện Nho Quan 02 xã, huyện Gia Viễn 03 xã. Lũy kế tổng số lợn tiêu hủy đến ngày 21/7/2024 là 870 con, trọng lượng tiêu hủy là 45,2 tấn. Chăn nuôi trâu bò và gia cầm phát triển bình thường, không có dịch bệnh xảy ra.

Đến ngày 08/7/2024, các địa phương đã kết thúc tổ chức tiêm phòng vắc xin cho đàn gia súc, gia cầm vụ Xuân Hè, kết quả như sau: Vắc xin phòng bệnh Cúm gia cầm đã tiêm được trên 2,1 triệu lượt con, đạt 96,5% kế hoạch; vắc xin phòng bệnh Viêm da nổi cục cho đàn trâu, bò đã tiêm được gần 31,2 nghìn lượt con, đạt 90,0% kế hoạch; vắc xin phòng bệnh Lở mồm long móng tiêm được gần 0,7 nghìn lượt con và vắc xin phòng bệnh dại trên đàn chó, mèo tiêm được gần 48,9 nghìn lượt con, đạt 92,2% kế hoạch.

1.2. Lâm nghiệp

Công tác chăm sóc, quản lý, bảo vệ và phòng chống cháy rừng thường xuyên được các ngành, các cấp quan tâm, trong tháng trên địa bàn tỉnh không có vụ cháy rừng nào xảy ra.

Diện tích rừng trồng mới tập trung trong tháng đạt 64,5 ha, tăng 61,2% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác trong tháng 7 ước đạt 2,4 nghìn m3, tăng 2,0%; sản lượng củi ước đạt 2,1 nghìn ste, tăng 1,4%; số cây lâm nghiệp trồng phân tán ước đạt 86,0 nghìn cây, tăng 0,6%. Tính chung 7 tháng đầu năm 2024, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 171,9 ha, tăng 18,7%; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 15,0 nghìn m3, tăng 2,1%; sản lượng củi khai thác ước đạt 13,7 nghìn ste, tăng 0,8%; số cây lâm nghiệp trồng phân tán ước đạt 521,4 nghìn cây, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước.

   Tính từ giữa tháng 6 đến nay, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 3 vụ phá rừng, lấn chiếm rừng trái pháp luật với diện tích rừng thiệt hại 0,0867 ha.

1.3. Thủy sản

Trong tháng, sản xuất thủy sản phát triển tốt, không có dịch bệnh xảy ra. Các hộ nuôi thả tập trung tôn tạo, nâng cấp củng cố bờ bao nhằm bảo vệ những diện tích thủy sản khỏi ảnh hưởng của mưa, lũ. Sau khi kết thúc thu hoạch vụ Đông Xuân, một số địa phương chuẩn bị vật tư, con giống để thực hiện việc nuôi thả cá trên ruộng lúa. Tại vùng nuôi thuỷ sản nước lợ huyện Kim Sơn, các hộ trong vùng đã bắt đầu chuyển sang giai đoạn thu hoạch thủy sản vụ I.

Sản lượng thủy sản tháng Bảy ước đạt 6,3 nghìn tấn, tăng 2,0% (+ 0,1 nghìn tấn) so với cùng tháng năm trước. Trong đó, sản lượng nuôi trồng ước đạt 5,5 nghìn tấn, tăng 2,4%; sản lượng khai thác ước đạt 0,8 nghìn tấn, giảm 0,7%.

Tính chung lại, sản lượng thủy sản 7 tháng đầu năm 2024 ước đạt 41,1 nghìn tấn, tăng 4,6% (+ 1,8 nghìn tấn) so với cùng kỳ năm trước; trong đó, sản lượng nuôi trồng ước đạt 36,8 nghìn tấn, tăng 4,5%; sản lượng khai thác ước đạt 4,3 nghìn tấn, tăng 5,1%. 

        2. Sản xuất công nghiệp

Sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh trong tháng Bảy tiếp tục phát triển và duy trì tốc độ tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đã góp phần tích cực vào mức tăng chung của toàn ngành công nghiệp.

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) toàn tỉnh tháng Bảy ước tính giảm 2,64% so với tháng trước. Trong đó, ngành khai khoáng giảm 1,77%; công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 2,33%; sản xuất và phân phối điện giảm 10,50%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 1,05%.

So với cùng tháng năm trước, chỉ số IIP toàn tỉnh tăng 17,77%. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 7,90%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 19,36%; sản xuất và phân phối điện giảm 9,36%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,85%.

Tính chung lại 7 tháng đầu năm 2024, chỉ số IIP toàn tỉnh tăng 11,35%, trong đó ngành khai khoáng tăng 17,06%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,52%; sản xuất và phân phối điện tăng 36,45%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,01%.

Giá trị sản xuất: Tính theo giá so sánh 2010, giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh tháng Bảy ước đạt 8.457,4 tỷ đồng, tăng 15,0% so với tháng 7/2023. Trong đó: Khai khoáng ước đạt 80,4 tỷ đồng, tăng 9,8%; công nghiệp chế biến, chế tạo 8.243,0 tỷ đồng, tăng 15,5%; sản xuất và phân phối điện 119,1 tỷ đồng, giảm 9,1%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 14,9 tỷ đồng, tăng 2,2%.

Tính chung lại, giá trị sản xuất công nghiệp 7 tháng đầu năm 2024 toàn tỉnh ước đạt 56.779,7 tỷ đồng, tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Ngành khai khoáng ước đạt 571,2 tỷ đồng, tăng 19,8%; công nghiệp chế biến, chế tạo 55.392,5 tỷ đồng, tăng 7,5%; sản xuất và phân phối điện 710,2 tỷ đồng, tăng 33,8%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 105,8 tỷ đồng, tăng 6,5%.

Sản phẩm công nghiệp chủ yếu: Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu ước thực hiện tháng Bảy năm 2024 tăng khá so với cùng kỳ như: Đá các loại 0,3 triệu m3, tăng 7,2%; ngô ngọt đóng hộp 0,4 nghìn tấn, tăng 32,4%; dứa đóng hộp 0,9 nghìn tấn, tăng 21,5%; giày dép các loại 5,6 triệu đôi, tăng 19,9%; phân NPK 9,0 nghìn tấn, tăng 38,5%; phân lân nung chảy 13,1 nghìn tấn, tăng 21,3%; linh kiện điện tử 8,5 triệu cái, tăng 6,3%; xe ô tô 5 chỗ ngồi trở lên 4,0 nghìn chiếc, tăng 45,0%; xe ô tô chở hàng hóa 0,7 nghìn chiếc, tăng 51,6%; ghế ngồi dùng cho xe có động cơ 19,9 nghìn chiếc, tăng 38,2%; cần gạt nước ô tô 0,6 triệu cái tăng 15,0%; đồ chơi hình con vật 2,5 triệu con, tăng 24,8%; điện thương phẩm 0,3 tỷ Kwh, tăng 26,9%;... Bên cạnh đó cũng có một số sản phẩm có mức sản xuất giảm sút như: Thức ăn gia súc 2,9 nghìn tấn, giảm 24,2%; nước khoáng không có ga 0,4 triệu lít, giảm 4,6%; hàng thêu 81,0 nghìn m2, giảm 44,0%; quần áo các loại 4,5 triệu cái, giảm 24,7%; phân urê 11,7 nghìn tấn, giảm 76,3%; thép cán 22,6 nghìn tấn, giảm 17,5%; modul camera 12,0 triệu cái, giảm 23,1%; tai nghe điện thoại di động 3,0 nghìn cái, giảm 97,3%; kính máy ảnh 139,1 nghìn cái, giảm 10,7%; búp bê 19,5 triệu con, giảm 17,7%; điện sản xuất 51,5 triệu Kwh, giảm 29,9%;...

Tính chung 7 tháng đầu năm 2024, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ là: Đá các loại 2,4 triệu m3, tăng 16,1%; ngô ngọt đóng hộp 2,0 nghìn tấn, tăng 8,7%; giày dép các loại 37,3 triệu đôi, tăng 15,7%; phân urê 0,3 triệu tấn, tăng 21,9%; phân NPK 74,6 nghìn tấn, tăng 53,2%; phân lân nung chảy 0,1 triệu tấn, tăng 57,1%; thép cán 0,2 triệu tấn, tăng 34,8%; kính máy ảnh 1,2 triệu cái, tăng 25,7%; xe ô tô chở hàng 4,7 nghìn chiếc, tăng 9,1%; ghế ngồi dùng cho xe có động cơ 0,1 triệu chiếc, tăng 11,1%; cần gạt nước ô tô 3,4 triệu cái, tăng 10,5%; đồ chơi hình con vật 17,5 triệu con, tăng 85,3%; điện sản xuất 0,5 tỷ Kwh, tăng 49,1%; điện thương phẩm 1,6 tỷ Kwh, tăng 19,4%;… Tuy nhiên, một số sản phẩm lại có mức sản xuất giảm như: Thức ăn gia súc 16,9 nghìn tấn, giảm 12,1%; hàng thêu 0,6 triệu m2, giảm 43,4%; quần áo các loại 31,5 triệu cái, giảm 11,4%; xi măng và clanke 3,7 triệu tấn, giảm 2,3%; modul camera 93,4 triệu cái, giảm 27,0%; tai nghe điện thoại di động 0,4 triệu cái, giảm 76,5%; búp bê 110,2 triệu con, giảm 24,9%;...

Sản lượng tồn kho một số sản phẩm chủ yếu đến 30/6/2024: Giày, dép 2,2 triệu đôi; đạm urê 9,3 nghìn tấn; phân NPK 23,1 nghìn tấn; phân lân nung chảy 6,4 nghìn tấn; kính xây dựng 69,1 nghìn tấn; xi măng 30,5 nghìn tấn; thanh, que sắt hoặc thép không hợp kim, được cán nóng 12,5 nghìn tấn; bản vi mạch điện tử 20,2 triệu chiếc; modul camera 15,4 triệu cái; xe ô tô lắp ráp 816 chiếc...

3. Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn

Tổng số vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn trong tháng Bảy năm 2024 toàn tỉnh ước đạt 2.646,7 tỷ đồng, giảm 7,7% so với cùng tháng năm trước. Trong đó: Vốn Nhà nước đạt 498,5 tỷ đồng, giảm 11,2%; vốn ngoài Nhà nước đạt 2.007,4 tỷ đồng, giảm 4,9%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 140,8 tỷ đồng, giảm 27,6%.

Tính chung lại, tổng vốn đầu tư thực hiện 7 tháng đầu năm 2024 toàn tỉnh ước đạt 17.948,6 tỷ đồng, tăng 1,0% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó: Vốn Nhà nước đạt 3.597,5 tỷ đồng, tăng 7,1%; vốn ngoài Nhà nước đạt 13.155,8 tỷ đồng, giảm 3,5%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 1.195,3 tỷ đồng, tăng 53,7%.

Một số dự án, công trình có khối lượng vốn đầu tư thực hiện lớn trong tháng Bảy năm 2024 là:

- Khu vực đầu tư công: Dự án xây dựng CSHT khu du lịch sinh thái Tràng An và các dự án thành phần ước đạt trên 35,8 tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đường Đông - Tây, tỉnh Ninh Bình (giai đoạn 1) ước đạt 30 tỷ đồng; dự án xây dựng Trường Đại học Hoa Lư (giai đoạn 2) ước đạt 20 tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đường Đinh Tiên Hoàng (giai đoạn 2) ước đạt 15 tỷ đồng; dự án nâng cấp tuyến đường chính vào khu du lịch suối Kênh Gà và động Vân Trình (giai đoạn 2) ước đạt gần 12,8 tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đường ĐT.482 kết nối quốc lộ 1A với quốc lộ 10 và kết nối quốc lộ 10 với quốc lộ 12B ước đạt 10 tỷ đồng; dự án đầu tư xây dựng cầu vượt sông Vân và đường dẫn phía Tây sông Vân, tỉnh Ninh Bình ước đạt 10 tỷ đồng; dự án xây dựng quảng trường và tượng đài Đinh Tiên Hoàng Đế ước đạt 8,7 tỷ đồng;…

- Khu vực sử dụng vốn ODA: Dự án cải thiện cơ sở hạ tầng đô thị nhằm giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu cho 04 tỉnh ven biển Bắc Trung Bộ - Tiểu dự án cải thiện cơ sở hạ tầng đô thị Phát Diệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình ước đạt 20 tỷ đồng.

- Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài: Dự án xây dựng nhà xưởng sản xuất, mua sắm tài sản, lắp đặt máy móc thiết bị phục vụ sản xuất camera module của Công ty TNHH MCNEX Vina ước đạt 70,5 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà xưởng sản xuất giày của Công ty TNHH Giầy Athena Việt Nam ước đạt 11,2 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà máy sản xuất các công cụ, dụng cụ cao cấp CIBON Ninh Bình của Công ty TNHH Công nghiệp CIBON Việt Nam ước đạt 10,5 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc thiết bị sản xuất hàng may mặc của Công ty TNHH Great Global International 9,1 tỷ đồng;  dự án xây dựng nhà xưởng sản xuất giày của Công ty TNHH Ever great Internation ước đạt 7,5 tỷ đồng;…

Một số dự án, công trình được khởi công mới trong tháng như: Dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu dân cư đô thị tại xóm An Cư, xã Thượng Kiệm, huyện Kim Sơn với tổng mức đầu tư 48,9 tỷ đồng; dự án xây dựng cơ sở hạ tầng khép kín khu dân cư phía Tây đường Phạm Thận Duật lô đất VI-06, phường Ninh Sơn, thành phố Ninh Bình với tổng mức đầu tư 47,2 tỷ đồng; dự án nâng cấp hệ thống kênh tiêu Thành Hồ, xã Yên Thái, huyện Yên Mô với tổng mức đầu tư 47,0 tỷ đồng; dự án xây dựng CSHT khu dân cư Đồi Cao 1, phường Yên Bình, thành phố Tam Điệp với tổng mức đầu tư 39 tỷ đồng; …

4. Thương mại, dịch vụ và giá cả

4.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức bán lẻ hàng hóa trong tháng Bảy năm nay ước đạt trên 6.588,9 tỷ đồng, tăng 26,1% so với tháng 7/2023. Tính chung lại 7 tháng đầu năm 2024, doanh thu bán lẻ hàng hoá toàn tỉnh đạt trên 46.054,6 tỷ đồng, tăng 26,3% so với cùng kỳ năm trước. Tất cả 12/12 nhóm hàng hóa có doanh thu bán lẻ tăng, trong đó một số nhóm đạt mức tăng cao như: Lương thực, thực phẩm ước đạt 17.290,0 tỷ đồng, tăng 30,1%; hàng may mặc 2.330,1 tỷ đồng, tăng 34,3%; vật phẩm văn hóa giáo dục 261,2 tỷ đồng, tăng 42,4%; xăng, dầu các loại 4.387,0 tỷ đồng, tăng 31,1%; nhiên liệu khác (trừ xăng, dầu) 409,3 tỷ đồng, tăng 37,2%; hàng hóa khác 641,6 tỷ đồng, tăng 41,0%; doanh thu dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 2.175,8 tỷ đồng, tăng 36,3%.

Ước tính doanh thu hoạt động lưu trú, ăn uống trong tháng Bảy năm 2024 đạt gần 787,8 tỷ đồng, tăng 23,8% so với cùng kỳ năm 2023; doanh thu dịch vụ du lịch lữ hành ước đạt 12,2 tỷ đồng, giảm 0,5%; doanh thu một số ngành dịch vụ khác ước đạt 518,7 tỷ đồng, tăng 15,7%. Tính chung 7 tháng đầu năm nay, doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống thực hiện trên toàn tỉnh ước đạt gần 5.393,8 tỷ đồng, tăng 28,4% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ du lịch lữ hành ước đạt trên 69,2 tỷ đồng, gấp 2,1 lần; doanh thu một số ngành dịch vụ khác ước đạt trên 3.569,1 tỷ đồng, tăng 13,5%.

4.2. Chỉ số giá

Mức đóng bảo hiểm y tế tăng, giá điện sinh hoạt bình quân, giá xăng, giá thịt lợn hơi và giá nước sinh hoạt tăng là những nguyên nhân chính tác động làm cho chỉ số giá tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ chung (CPI) trên địa bàn tỉnh trong tháng Bảy tiếp tục ghi nhận mức tăng, cụ thể: So với tháng trước, CPI tăng 0,56%; so với tháng 12 năm trước, CPI tăng 2,62% và so với tháng 7/2023, CPI tăng 4,51%. Tính chung lại, CPI bình quân 7 tháng năm 2024 tăng 4,51% so với cùng kỳ năm 2023.

So với tháng trước, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có 06 nhóm có chỉ số giá tăng, 05 nhóm giữ chỉ số giá ổn định. Các nhóm có chỉ số giá tăng gồm: Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng mạnh nhất với 4,94%, chủ yếu do mức đóng bảo hiểm y tế trong tháng được điều chỉnh tăng theo mức lương cơ sở được quy định tại Nghị định 73/2024/NĐ-CP, theo đó mức đóng bảo hiểm y tế đã tăng 30,0%; tiếp theo nhóm giao thông tăng 1,5% do giá nhóm nhiên liệu tăng 3,72% khi giá xăng, dầu diezel được điều chỉnh tăng trong tháng (giá xăng tăng 3,81%; giá dầu diezel tăng 4,37%); nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 1,25% do thời tiết nắng nóng kéo dài, nhu cầu sử dụng điện cho sinh hoạt tăng nên giá điện sinh hoạt bình quân tăng 4,97% cùng với việc giá nước sinh hoạt tăng 8,06% do thực hiện Quyết định số 42/2024/QĐ-UBND ngày 14/6/2024 của UBND tỉnh Ninh Bình về việc Ban hành biểu giá bán lẻ nước sạch sinh hoạt tại khu vực đô thị trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, trong đó điều chỉnh giá nước sinh hoạt của hộ dân cư tăng từ 10.300 đồng/m3 lên 11.130 đồng/m3; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,63% do phí truyền hình và internet tăng 1,58%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,12%, trong đó nhóm lương thực giảm 1,17% do xuất khẩu gạo chậm lại, mặt khác đang vào vụ thu hoạch lúa Đông Xuân nên nguồn cung gạo tăng dẫn đến giá gạo giảm 2,66%, nhóm thực phẩm tăng 0,33% nguyên nhân chính do nguồn cung thiếu hụt sau đợt dịch tả lợn Châu Phi, thêm vào đó giá lợn giống và chi phí thức ăn chăn nuôi tăng cao làm chi phí đầu vào tăng đã tác động đến giá thịt lợn hơi và nội tạng động vật tăng theo (giá thịt lợn hơi tăng 1,5%, giá nội tạng động vật tăng 1,63%), nhóm ăn uống ngoài gia đình tăng 0,1% và nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng nhẹ 0,04%. Các nhóm có chỉ số giá ổn định là: Nhóm đồ uống và thuốc lá; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép; nhóm thuốc và dịch vụ y tế; nhóm giáo dục và nhóm bưu chính viễn thông.

CPI bình quân 7 tháng đầu năm 2024 tăng 4,51% so với cùng kỳ năm 2023. Tất cả 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ đều có chỉ số giá tăng, cụ thể: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 5,49% (lương thực tăng 19,23%, thực phẩm tăng 5,44%, ăn uống ngoài gia đình tăng 0,45%); nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,31%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 5,76%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 4,32%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,26%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 8,74%; nhóm giao thông tăng 2,53%; nhóm bưu chính viễn thông tăng 0,05%; nhóm giáo dục tăng 2,82%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 4,45% và nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 6,88%.

Chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ: Chỉ số giá vàng tháng Bảy giảm 0,2% so với tháng trước, tăng 22,87% so với tháng 12/2023 và tăng 34,18% so với cùng tháng năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng này tăng 0,19% so với tháng 6/2024, tăng 4,67% so với tháng 12/2023 và tăng 7,8% so với tháng 7/2023. Bình quân 7 tháng đầu năm 2024, chỉ số giá vàng tăng 27,27%, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 5,72%.

4.3. Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Xuất khẩu: Tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa toàn tỉnh trong tháng Bảy ước thực hiện 281,5 triệu USD, tăng 8,3% so với tháng Bảy năm 2023.

Trong 7 tháng đầu năm 2024, tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa ước đạt 1.932,9 triệu USD,  tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn là: Giày dép các loại 542,8 triệu USD; camera và linh kiện ước đạt 406,6 triệu USD; xi măng và clanke 357,0 triệu USD; quần áo các loại 182,8 triệu USD; linh kiện điện tử 82,2 triệu USD, linh kiện phụ tùng ô tô các loại 76,9 triệu USD...

Bảy tháng đầu năm nay, một số mặt hàng có mức tăng khá so với cùng kỳ như: Dứa, dưa chuột đóng hộp 4,8 nghìn tấn, tăng 6,5%; túi nhựa 1,2 nghìn tấn, tăng 98,0%; hàng thêu ren 146,0 nghìn chiếc, tăng 67,9%; giày dép các loại 37,9 triệu đôi, tăng 13,7%; kính quang học 1,3 triệu chiếc, tăng 30,3%; linh kiện điện tử 82,2 triệu USD, tăng 34,7%; phôi nhôm 16,0 nghìn tấn, tăng 17,8%; đồ chơi trẻ em 11,3 triệu chiếc, gấp 2,0 lần; linh kiện phụ tùng ô tô các loại 76,9 triệu USD, tăng 57,3%;... Tuy nhiên một số mặt hàng xuất khẩu lại giảm sút so với cùng kỳ như: Nước dứa cô đặc 1,0 nghìn tấn, giảm 2,4%; xi măng và clanke 8,8 triệu tấn, giảm 12,9%; camera và linh kiện 93,7 triệu sản phẩm, giảm 28,6%; phân ure 20,3 nghìn tấn, giảm 38,0%; thảm cói 39,6 nghìn m2, giảm 27,7%.

Nhập khẩu: Tổng giá trị nhập khẩu hàng hóa trong tháng Bảy ước thực hiện 284,5 triệu USD, tăng 18,3% so với cùng tháng năm 2023.

Tính chung lại, 7 tháng đầu năm nay tổng giá trị nhập khẩu hàng hóa toàn tỉnh ước đạt gần 1.807,1 triệu USD, tăng 12,6% so với cùng kỳ năm trước. Trị giá các nhóm mặt hàng nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn là: Linh kiện điện tử 519,2 triệu USD; linh kiện phụ tùng ô tô các loại 518,0 triệu USD; phụ liệu sản xuất giày, dép 378,0 triệu USD; vải may mặc các loại 94,0 triệu USD; ô tô 29,2 triệu USD.

4.4. Vận tải hành khách và hàng hóa

          Vận tải hành khách: Ước thực hiện trong tháng Bảy đạt trên 4,4 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 23,1% so với tháng 7/2023 và luân chuyển gần 203,3 triệu lượt khách.km, tăng 18,4%. Tính chung 7 tháng đầu năm nay, khối lượng hành khách vận chuyển thực hiện toàn tỉnh ước đạt trên 30,8 triệu lượt khách, tăng 23,7% và luân chuyển gần 1.434,4 triệu lượt khách.km, tăng 20,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vận tải đường bộ ước đạt 24,7 triệu lượt khách, tăng 26,1% và 1.410,5 triệu lượt khách.km, tăng 21,0%; vận tải đường thủy nội địa 6,1 triệu lượt khách, tăng 14,8% và 23,9 triệu lượt khách.km, tăng 12,6%.

Vận tải hàng hóa: Trong tháng Bảy, khối lượng hàng hóa vận chuyển toàn tỉnh ước thực hiện gần 14,3 triệu tấn, tăng 24,0% và luân chuyển gần 1.928,0 triệu tấn.km, tăng 26,4% so với cùng tháng năm trước. Tính chung cả 7 tháng, khối lượng hàng hoá vận chuyển toàn tỉnh đạt trên 99,2 triệu tấn, tăng 24,8% và luân chuyển trên 13.252,1 triệu tấn.km, tăng 25,0% so với 7 tháng đầu năm 2023. Trong đó: Vận tải đường bộ ước đạt 36,2 triệu tấn, tăng 24,5% và 1.480,1 triệu tấn.km, tăng 21,6%; vận tải đường thủy nội địa 56,3 triệu tấn, tăng 24,2% và 8.158,1 triệu tấn.km, tăng 23,0%; vận tải biển 6,7 triệu tấn, tăng 32,0% và 3.613,9 triệu tấn.km, tăng 31,2%.

Doanh thu vận tải: Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải toàn tỉnh thực hiện trong tháng này ước đạt gần 1.691,0 tỷ đồng, tăng 23,6% so với cùng tháng năm trước. Tính trong 7 tháng đầu năm, doanh hoạt động vận tải toàn tỉnh ước đạt gần 11.739,4 tỷ đồng, tăng 23,1% so với 7 tháng đầu năm 2023. Trong đó phân theo loại hình vận tải: Vận tải hành khách ước đạt 1.435,6 tỷ đồng, tăng 23,0%; vận tải hàng hóa 9.134,8 tỷ đồng, tăng 23,6%; hoạt động dịch vụ hỗ trợ vận tải 1.091,3 tỷ đồng, tăng 19,7%; bưu chính chuyển phát 77,7 tỷ đồng, tăng 15,3%.

4.5. Hoạt động du lịch

Ước tính số lượt khách đến các điểm tham quan, du lịch trên địa bàn tỉnh trong tháng Bảy đạt gần 406,0 nghìn lượt khách, tăng 20,5% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: Khách trong nước 339,7 nghìn lượt, tăng 7,7%; khách quốc tế 66,3 nghìn lượt, gấp 3,1 lần. Tổng số lượt khách đến các cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh ước đạt 112,4 nghìn lượt khách, tăng 19,3%; số ngày khách lưu trú ước đạt 137,2 nghìn ngày khách, tăng 2,9%. Doanh thu du lịch trong tháng ước đạt 454,6 tỷ đồng, tăng 13,9% so với cùng tháng năm trước.

Tính chung 7 tháng đầu năm nay, số lượt khách đến các điểm tham quan, du lịch trên địa bàn tỉnh ước đạt trên 6.520,3 nghìn lượt khách, tăng 33,8% so với 7 tháng năm 2023. Chia ra: Khách trong nước 5.773,5 nghìn lượt khách, tăng 24,7%; khách quốc tế 746,8 nghìn lượt, gấp 3,1 lần. Tổng số lượt khách đến các cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh ước đạt 1.257,1 nghìn lượt khách, tăng 66,7%; số ngày khách lưu trú ước đạt 1.405,5 nghìn ngày khách, tăng 42,9%. Doanh thu du lịch 7 tháng ước đạt gần 6.269,4 tỷ đồng, tăng 47,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu khách sạn 491,2 tỷ đồng, tăng 32,7%; doanh thu nhà hàng 3.116,6 tỷ đồng, tăng 43,6%.

 

5. Một số vấn đề xã hội

5.1. Văn hoá thông tin

Hoạt động Văn hóa - Thông tin trong tháng diễn sôi nổi với nhiều hình thức phong phú, thiết thực phục vụ nhiệm vụ chính trị, phục vụ Nhân dân, hướng tới Kỷ niệm 77 năm ngày Thương binh - Liệt sỹ (27/7/1947 - 27/7/2024). Tổ chức thành công Chương trình hòa nhạc hữu nghị Ninh Bình, Việt Nam - Saiki, Nhật Bản năm 2024.

Trong tháng, Nhà hát Chèo Ninh Bình đã tổ chức 13 buổi biểu diễn nghệ thuật và chương trình ca múa nhạc phục vụ nhiệm vụ chính trị, phục vụ Nhân dân. Trung tâm Văn hóa tỉnh đã tổ chức 24 buổi chiếu phim lưu động phục vụ khán giả tại một số địa phương trong tỉnh. Bảo tàng tỉnh đón tiếp 274 lượt khách tham quan; thư viện tỉnh thực hiện luân chuyển trên 239 nghìn lượt sách, báo, tạp chí phục vụ 81,6 nghìn lượt bạn đọc.

5.2. Thể dục, thể thao

Trong tháng, tiếp tục duy trì công tác đào tạo, huấn luyện nâng cao thành tích cho vận động viên tại Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu thể dục thể thao tỉnh;  thành lập các đoàn vận động viên tham gia thi đấu, đạt 43 huy chương các loại, gồm: 14 huy chương Vàng (HCV), 16 huy chương Bạc (HCB) và 13 huy chương Đồng (HCĐ). Trong đó: Đoàn vận động viên tham dự Giải vô địch điền kinh các nhóm tuổi trẻ quốc gia năm 2024 tại Bình Định đạt 01 HCV, 02 HCB và 03 HCĐ; đoàn vận động viên tham dự Giải vô địch trẻ và vô địch Đông Nam Á Jujitsu năm 2024 tại Indonesia đạt 02 HCV, 03 HCB và 03 HCĐ.

Bên cạnh đó, tổ chức thành công các trận bóng đá trong khuôn khổ giải Hạng nhất quốc gia trên Sân vận động tỉnh và một số giải thể thao quần chúng như: Giải bơi thiếu niên, nhi đồng tỉnh Ninh Bình năm 2024; giải chạy Việt dã ngành Y tế lần thứ II, năm 2024; giải bóng đá nhi đồng huyện Yên Mô năm 2024...

5.3. Hoạt động y tế [1]

Trong tháng, ngành Y tế chủ động giám sát dịch bệnh tại các bệnh viện và cộng đồng; chuẩn bị đầy đủ cơ số thuốc, trang thiết bị, máy móc phục vụ công tác phòng, chống dịch bệnh; tăng cường giám sát các trường hợp mắc bệnh truyền nhiễm tại cộng đồng, phát hiện sớm các trường hợp bệnh truyền nhiễm, triển khai kế hoạch phòng, chống dịch bệnh; đẩy mạnh tuyên truyền về công tác tiêm chủng và phòng chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như: Các bệnh truyền nhiễm mới nổi, tái nổi, ho gà, sốt xuất huyết, bệnh bạch hầu…

Trong tháng, hầu hết các bệnh truyền nhiễm có số trường hợp mắc giảm so với cùng kỳ năm 2023. Một số bệnh có số trường hợp mắc tăng, cụ thể: 01 trường hợp mắc bệnh do vi rút Adeno, 05 trường hợp mắc ho gà, 49 trường hợp mắc thủy đậu và 36 trường hợp viêm gan vi rút.

Cũng trong tháng, đã xảy ra 25 ca ngộ độc thực phẩm lẻ tẻ, không có tử vong do ngộ độc thực phẩm. Tại các cơ sở y tế trên địa bàn toàn tỉnh đã khám bệnh cho 102,8 nghìn lượt bệnh nhân; điều trị nội trú cho 15,7 nghìn lượt người; khám phụ khoa 2,8 nghìn lượt, khám thai 5,9 nghìn lượt, đặt dụng cụ tử cung 261 ca, triệt sản 10 ca...

Công tác phòng chống HIV/AIDS: Trong tháng, phát hiện mới 02 người nhiễm HIV; số bệnh nhân HIV tử vong là 01 người. Lũy tích số người nhiễm HIV tính đến nay là 2.842 người.

5.4. Giáo dục, đào tạo

Trong tháng, ngành giáo dục tỉnh Ninh Bình thực hiện công tác tuyển sinh đầu cấp học đối với học sinh lớp 1 và lớp 6 thực hiện đăng ký theo hình thức trực tuyến; hoàn thành duyệt tuyển sinh vào lớp 10 THPT năm học 2023-2024 khối các trường THPT, tổng số học sinh trúng tuyển là 11.069 học sinh, chiếm 89,3%, trong đó các trường THPT công lập: 10.419 học sinh, các trường THPT ngoài công lập: 650 học sinh; tiếp tục duyệt tuyển sinh khối các trung tâm GDNN-GDTX theo kế hoạch.

 Kết quả thi tốt nghiệp THPT năm 2024 của tỉnh Ninh Bình: Tỷ lệ đỗ tốt nghiệp đạt 99,95%; điểm trung bình tất cả các bài thi của thí sinh đạt 7,35 điểm, tăng 0,32 điểm so với năm 2023 và xếp thứ hai toàn quốc. Trong đó, có 09 môn thi có điểm trung bình trong top 10 tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước, có 370 bài thi đạt điểm 10, 02 thí sinh trong top 10 thí sinh có điểm thi tốt nghiệp cao nhất toàn quốc.

Kết quả Cuộc thi "Thiết kế bài giảng điện tử Tiếng Anh" toàn quốc, có 199 sản phẩm dự thi ở cả 3 cấp học (Tiểu học, THCS, THPT). Ngành Giáo dục Ninh Bình đoạt giải Ba tập thể; có 03 sản phẩm đoạt giải cá nhân, trong đó: 01 giải Nhất, 01 giải Ba, 01 giải Khuyến khích và 01 giải phụ cá nhân "Giáo viên có giọng hát hay"; 01 giải "Bài giảng có yếu tố sáng tạo".

5.5. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội[2]

Trong tháng, Công an tỉnh chủ động nắm và kiểm soát tốt tình hình, huy động tối đa lực lượng, phương tiện bảo đảm an ninh trật tự, trật tự an toàn giao thông (TTATGT) và phòng, chống cháy nổ; đảm bảo an ninh, an toàn kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2024; tập trung thực hiện quyết liệt Kế hoạch đợt cao điểm kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm về TTATGT, trấn áp tội phạm ma túy ở các địa bàn trọng điểm, gắn với tấn công, trấn áp các loại tội phạm khác.

Tính từ ngày 15/6/2024 đến ngày 14/7/2024, toàn tỉnh đã xảy ra 18 vụ tai nạn giao thông đường bộ và 01 vụ tai nạn giao thông đường sắt, làm chết 09 người và 12 người bị thương; đã xảy ra 30 vụ phạm pháp hình sự với 72 đối tượng; phát hiện 31 vụ buôn bán, vận chuyển, tàng trữ ma tuý với 43 đối tượng; không xảy ra cháy nổ./.

 


[1] Theo số liệu trong Báo cáo kết quả hoạt động y tế tháng 7/2024 và nhiệm vụ trong tâm tháng 8/2024 của Sở Y tế

[2] Theo số liệu của Công an tỉnh

 





CÁC BÀI KHÁC


331235

46
58
331235