Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Bình tháng Mười một năm 2024
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản
Nhiệm vụ trọng tâm của sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản trong tháng là đẩy nhanh tiến độ gieo trồng cây vụ Đông; tiếp tục phòng, chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm; tăng cường công tác quản lý, bảo vệ, phòng chống cháy rừng và chăm sóc, phòng bệnh cho các đối tượng nuôi thủy sản.
1.1. Nông nghiệp
1.1.1. Trồng trọt
Thu hoạch vụ Mùa: Trong tháng, các địa phương đã cơ bản hoàn thành việc thu hoạch lúa và các loại cây trồng vụ Mùa. Diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Mùa năm 2024 đạt 36,7 nghìn ha, giảm 0,1% (- 0,04 nghìn ha) so với cùng vụ năm trước; riêng diện tích lúa đạt 31,2 nghìn ha, tăng 0,1% (+ 0,05 nghìn ha).
Vụ Mùa năm 2024, thời tiết có nhiều diễn biến bất lợi, do ảnh hưởng của mưa lớn từ đầu vụ khiến cho nhiều diện tích phải gieo cấy lại. Đến thời điểm đầu tháng 9 tiếp tục chịu sự ảnh hưởng của cơn bão số 3 và hoàn lưu sau bão làm cho một số diện tích lúa, rau màu trên địa bàn bị ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình sinh trưởng và phát triển. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của các cấp, các ngành và các địa phương cùng sự nỗ lực cố gắng của bà con nông dân, đã giảm thiểu được tới mức thấp nhất những thiệt hại do yếu tố khách quan mang lại.
Năng suất lúa thu hoạch toàn tỉnh sơ bộ vụ Mùa đạt 53,08 tạ/ha, giảm 2,1% (- 1,1 tạ/ha), sản lượng ước đạt 163,3 nghìn tấn, giảm 3,4% (- 5,7 nghìn tấn).
Năng suất ngô thu hoạch sơ bộ đạt 38,8 tạ/ha, tăng 2,0% (+ 0,8 tạ/ha); sản lượng đạt 4,4 nghìn tấn, giảm 1,6% (- 0,1 nghìn tấn) do diện tích ngô vụ Mùa năm 2024 chỉ đạt 1,2 nghìn ha, giảm 0,5% so với vụ Mùa năm 2023...
Sản xuất vụ Đông: Tính đến ngày 27/11, toàn tỉnh trồng được trên 6,2 nghìn ha cây vụ Đông, đạt 83,8% kế hoạch diện tích gieo trồng cây vụ Đông năm 2024. Trong đó gồm: 1,4 nghìn ha ngô, 0,4 nghìn ha khoai lang, 0,2 nghìn ha lạc và 4,2 nghìn ha rau, đậu các loại... Diện tích cây vụ Đông trồng tập trung chủ yếu ở các địa phương như: Huyện Nho Quan 1,1 nghìn ha, huyện Yên Khánh 1,7 nghìn ha, huyện Yên Mô 1,4 nghìn ha...
Đến nay, thời tiết tương đối thuận lợi, sâu bệnh ít xuất hiện, các loại cây trồng vụ Đông đang trong giai đoạn sinh trưởng và phát triển tốt. Các địa phương tiếp tục triển khai trồng cây vụ Đông đảm bảo trong khung thời vụ tốt nhất và tập trung chăm sóc, thu hoạch một số loại rau vụ Đông.
1.1.2. Chăn nuôi
Trong tháng, đàn gia súc, gia cầm phát triển tốt, không phát sinh dịch bệnh trên đàn trâu, bò và đàn gia cầm.
Tại thời điểm báo cáo đàn trâu ước đạt 12,8 nghìn con, giảm 1,0% (- 0,1 nghìn con); đàn bò ước đạt 35,8 nghìn con, tăng 0,7% (+ 0,3 nghìn con) so với cùng thời điểm năm trước; đàn lợn ước đạt 297,6 nghìn con, tăng 3,8% (+ 11,0 nghìn con); tổng đàn gia cầm ước đạt 7,0 triệu con, tăng 3,7% (+ 0,3 triệu con), trong đó đàn gà ước đạt 4,9 triệu con, tăng 5,3% (+ 0,2 triệu con).
Tình hình dịch tả lợn Châu Phi: Đến ngày 29/11/2024, toàn tỉnh chỉ còn 1 ổ dịch chưa qua 21 ngày ở xã Yên Đồng, huyện Yên Mô. Lũy kế số lợn tiêu hủy từ đầu năm đến nay là 981 con, trọng lượng tiêu hủy trên 51 tấn.
Công tác tiêm phòng vắc xin trên đàn gia, súc gia cầm vụ Thu Đông: Tính đến ngày 26/11/2024, toàn tỉnh đã hoàn thành kế hoạch tiêm phòng vắc xin vụ Thu Đông, kết quả: Đã tiêm được 27.229 liều vắc xin phòng bệnh Lở mồm long móng; Vắc xin phòng bệnh Cúm gia cầm đã tiêm được 1.516.077 lượt con (tương đương 2.597.875 liều).
1.2. Lâm nghiệp
Công tác chăm sóc, quản lý, bảo vệ và phòng chống cháy rừng thường xuyên được các cấp, các ngành quan tâm, trong tháng không có vụ cháy rừng nào xảy ra.
Diện tích rừng trồng mới tập trung tháng Mười một ước đạt 14,9 ha, tăng 6,4% (+ 0,9 ha) so với cùng tháng năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán ước đạt 92,0 nghìn cây tương đương với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 2,5 nghìn m3, tăng 6,3% (+ 0,2 nghìn m3); sản lượng củi khai thác ước đạt 2,0 nghìn ste, tăng 3,3% (+ 0,06 nghìn ste). Tính chung 11 tháng năm nay, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 278,1 ha, giảm 2,5% (- 7,0 ha) so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán ước đạt 877,4 nghìn cây tăng 2,4% (+ 20,2 nghìn cây); sản lượng gỗ khai thác ước đạt 24,4 nghìn m3, tăng 2,5% (+ 0,6 nghìn m3); sản lượng củi khai thác 21,7 nghìn ste, tăng 1,3% (+ 0,3 nghìn ste).
1.3. Thủy sản
Trong tháng, điều kiện thời tiết thuận lợi, các con nuôi thủy sản sinh trưởng và phát triển tốt, không có dịch bệnh xảy ra. Hiện nay, các hộ nuôi đang tiến hành thu hoạch sản phẩm của chu kỳ sản xuất trong năm và chuẩn bị cho công tác vệ sinh, tôn tạo ao, đầm, tìm nguồn giống tốt để nuôi thả năm sau. Ngành Nông nghiệp đã tham mưu cho UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 203/KH-UBND ngày 13/11/2024 về phòng, chống dịch bệnh gia súc, gia cầm và thủy sản trên địa bàn tỉnh Ninh Bình năm 2025.
Sản lượng thủy sản tháng Mười một ước đạt 6,0 nghìn tấn, tăng 5,7% (+ 0,32 nghìn tấn) so với cùng tháng năm trước. Chia ra: Sản lượng nuôi trồng ước đạt 5,4 nghìn tấn, tăng 6,2% (+ 0,31 nghìn tấn); sản lượng khai thác ước đạt 0,6 nghìn tấn, tăng 1,8% (+ 0,01 nghìn tấn).
Tính chung lại, sản lượng thủy sản 11 tháng đầu năm ước đạt 66,4 nghìn tấn, tăng 4,6% (+ 2,9 nghìn tấn) so với cùng kỳ năm trước. Chia ra: Sản lượng nuôi trồng ước đạt 59,1 nghìn tấn, tăng 4,6% (+ 2,6 nghìn tấn); sản lượng khai thác ước đạt 7,3 nghìn tấn, tăng 4,7% (+ 0,3 nghìn tấn).
2. Sản xuất công nghiệp
Hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh trong tháng Mười một tiếp tục ghi nhận đà phục hồi tích cực. Tính chung trong 11 tháng năm nay, sản xuất công nghiệp của tỉnh đạt mức tăng khá so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) toàn tỉnh tháng Mười một ước tính tăng 10,45% so với cùng tháng năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 15,16%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,93%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,24%; riêng sản xuất và phân phối điện giảm 3,97%.
So với tháng trước, chỉ số IIP toàn tỉnh tháng này tăng 4,49% do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,97%, các ngành còn lại đều có IIP giảm: Khai khoáng giảm 9,84%; sản xuất và phân phối điện giảm 6,85%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 1,08%.
Tính chung lại 11 tháng năm 2024 chỉ số IIP toàn tỉnh tăng 11,68% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó ngành khai khoáng tăng 17,88%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,41%; sản xuất và phân phối điện tăng 20,14%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,87%.
Giá trị sản xuất: Tính theo giá so sánh 2010, giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh trong tháng Mười một ước đạt 10.816,9 tỷ đồng, tăng 8,6% so với tháng 11/2023. Trong đó: Khai khoáng ước đạt 68,1 tỷ đồng, tăng 16,8%; công nghiệp chế biến, chế tạo 10.625,9 tỷ đồng, tăng 8,6%; sản xuất và phân phối điện 101,1 tỷ đồng, giảm 0,8%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 21,8 tỷ đồng, tăng 2,6%.
Tính chung lại, giá trị sản xuất công nghiệp 11 tháng năm 2024 toàn tỉnh ước đạt 95.138,8 tỷ đồng, tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Khai khoáng ước đạt 1.033,4 tỷ đồng, tăng 17,7%; công nghiệp chế biến, chế tạo 92.829,1 tỷ đồng, tăng 9,4%; sản xuất và phân phối điện 1.070,5 tỷ đồng, tăng 20,1%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 205,8 tỷ đồng, tăng 5,8%.
Sản phẩm công nghiệp chủ yếu: Một số sản phẩm công nghiệp trong tháng Mười một năm nay tăng khá so với cùng tháng năm trước như: Đá các loại 0,4 triệu m3, tăng 14,9%; dứa đóng hộp 0,9 nghìn tấn, gấp 2,1 lần; nước dứa tươi 0,6 triệu lít, tăng 20,0%; thức ăn gia súc 2,1 nghìn tấn, tăng 10,0%; hàng thêu 84,0 nghìn m2, gấp 13,1 lần; giày dép các loại 6,2 triệu đôi, tăng 10,4%; phân Ure 46,8 nghìn tấn, tăng 21,2%; phân NPK 17,5 nghìn tấn, tăng 42,3%; phân lân nung chảy 8,1 nghìn tấn, tăng 55,8%; xi măng (kể cả clanke) 0,8 triệu tấn, tăng 16,3%; linh kiện điện tử 10,2 triệu cái, tăng 22,9%; xe ô tô 5 chỗ ngồi trở lên 6,1 nghìn chiếc, tăng 19,1%; xe ô tô chở hàng 0,6 nghìn chiếc, tăng 88,0%; ghế dùng cho xe có động cơ 28,8 nghìn chiếc, tăng 39,1%; cần gạt nước ô tô 0,6 triệu cái, tăng 63,8%; búp bê 13,0 triệu con, tăng 32,3%; đồ chơi hình con vật 2,9 triệu con, tăng 51,1%;... Bên cạnh đó vẫn có một số sản phẩm giảm sút so với cùng kỳ như: Thép cán các loại 25,7 nghìn tấn, giảm 3,0%; cấu kiện nhà lắp sẵn bằng kim loại 8,4 tấn, giảm 79,9%; tai nghe điện thoại di động 5,0 nghìn cái, giảm 94,8%; kính máy ảnh 0,2 triệu cái, giảm 35,9%; điện sản xuất 48,0 triệu Kwh, giảm 4,4%; điện thương phẩm 0,2 tỷ Kwh, giảm 3,4%;…
Tính chung 11 tháng năm 2024, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ như: Đá các loại 3,9 triệu m3, tăng 17,1%; giày dép các loại 62,4 triệu đôi, tăng 18,2%; phân Ure 0,5 triệu tấn, tăng 24,9%; phân NPK 0,1 triệu tấn, tăng 46,1%; phân lân nung chảy 0,2 triệu tấn, tăng 40,2%; thép cán các loại 0,3 triệu tấn, tăng 23,8%; xe ô tô 5 chỗ ngồi trở lên 47,5 nghìn chiếc, tăng 16,3%; xe ô tô chở hàng 7,0 nghìn chiếc, tăng 13,5%; ghế ngồi dùng cho xe có động cơ 0,2 triệu chiếc, tăng 28,9%; cần gạt nước ô tô 5,4 triệu cái, tăng 23,5%; đồ chơi hình con vật 29,2 triệu con, tăng 55,8%; điện sản xuất 0,7 tỷ Kwh, tăng 25,9%; điện thương phẩm 2,6 tỷ Kwh, tăng 12,8%;… Tuy nhiên một số sản phẩm lại có mức giảm sút như: Thức ăn gia súc 23,8 nghìn tấn, giảm 11,3%; hàng thêu 0,9 triệu m2, giảm 47,9%; quần áo các loại 51,9 triệu cái, giảm 5,4%; modul camera 157,9 triệu cái, giảm 20,5%; tai nghe điện thoại di động 0,4 triệu cái, giảm 80,5%; búp bê 173,5 triệu con, giảm 13,3%;…
Sản lượng tồn kho một số sản phẩm chủ yếu đến 31/10/2024: Giầy dép 2,4 triệu đôi; đạm ure 22,9 nghìn tấn; phân NPK 20,4 nghìn tấn; phân lân nung chảy 16,2 nghìn tấn; kính xây dựng 69,1 nghìn tấn; xi măng 29,4 nghìn tấn; thanh, que sắt hoặc thép không hợp kim, được cán nóng 10,2 nghìn tấn; bản vi mạch điện tử 20,6 triệu chiếc; camera và linh kiện điện tử 15,6 triệu cái; xe ô tô từ 5 chỗ ngồi trở lên chỗ 394 chiếc;...
3. Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn
Tổng số vốn đầu tư thực hiện tháng Mười một năm 2024 toàn tỉnh ước đạt 3.162,5 tỷ đồng, tăng 8,2% so với cùng tháng năm trước. Chia ra: Vốn Nhà nước đạt 754,6 tỷ đồng, giảm 15,5%; vốn ngoài Nhà nước đạt 2.256,6 tỷ đồng, tăng 19,6%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 151,3 tỷ đồng, tăng 5,6%.
Tính chung lại, tổng vốn đầu tư thực hiện 11 tháng năm 2024 toàn tỉnh ước đạt 30.434,2 tỷ đồng, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm 2023. Chia ra: Vốn Nhà nước đạt 6.244,5 tỷ đồng, tăng 2,3%; vốn ngoài Nhà nước đạt 22.532,8 tỷ đồng, tăng 4,1%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 1.656,9 tỷ đồng, tăng 15,6%.
Vốn đầu tư thực hiện trong tháng của một số dự án, công trình có khối lượng lớn là:
- Khu vực đầu tư công: Dự án xây dựng tuyến đường Đông – Tây (giai đoạn I) ước đạt 45 tỷ đồng; dự án xây dựng kênh kết hợp đường Vạn Hạnh (giai đoạn 1) ước đạt 29 tỷ đồng; dự án xử lý sạt lở bờ Tả sông Vạc đoạn từ K19+300 - K22+000 và xử lý kè Hữu sông Đáy đoạn từ K70+198 - K70+518, huyện Kim Sơn ước đạt 28,8 tỷ đồng; dự án xây dựng Trường Đại học Hoa Lư (giai đoạn 2) ước đạt 27,9 tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đường bộ ven biển qua tỉnh Ninh Bình (giai đoạn 2) ước đạt 20 tỷ đồng; dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu dân cư xóm 13, xã Kim Tân, huyện Kim Sơn ước đạt gần 16,7 tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đường Đinh Tiên Hoàng (giai đoạn 2) ước đạt 14,7 tỷ đồng; dự án xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ đấu giá quyền sử dụng đất tại khu dân cư tam và tứ Tư Điền xã Khánh Nhạc ước đạt 12,5 tỷ đồng;…
- Khu vực sử dụng vốn ODA: Dự án cải thiện cơ sở hạ tầng đô thị nhằm giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu cho 04 tỉnh ven biển Bắc Trung Bộ - Tiểu dự án cải thiện cơ sở hạ tầng đô thị Phát Diệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình ước đạt 0,8 tỷ đồng.
- Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài: Dự án xây dựng nhà xưởng sản xuất, mua sắm tài sản, lắp đặt máy móc thiết bị phục vụ sản xuất camera module của Công ty TNHH MCNEX Vina ước đạt 48 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc thiết bị của Công ty TNHH Sejung Việt Nam ước đạt 19,8 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà xưởng sản xuất giày của Công ty TNHH Giầy Athena Việt Nam ước đạt 9,5 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà xưởng sản xuất giày của Công ty TNHH Ever great International ước đạt 6,7 tỷ đồng;…
Một số công trình, dự án khởi công trong tháng: Dự án nâng cấp đê Nam sông Rịa, đê sông Bến Đang đảm bảo ứng cứu, phòng chống thiên tai, ổn định dân cư, phát triển kinh tế xã hội các xã phía Đông Nam, huyện Nho Quan với tổng mức đầu tư 180 tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đường liên xã Quảng Lạc - Phú Long, ổn định dân cư, phát triển kinh tế vùng núi đặc biệt khó khăn với tổng mức đầu tư 65 tỷ đồng; dự án xây dựng đường Xuân Thành (đoạn từ Bưu điện Kì Vỹ đến đường Nguyễn Minh Không) xã Ninh Nhất, Thành phố Ninh Bình với tổng mức đầu tư gần 58 tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đường kết nối trung tâm xã Thạch Bình, huyện Nho Quan đi xã Đoàn Kết, huyện Yên Thủy với tổng mức đầu tư là 50 tỷ đồng;…
4. Thương mại, dịch vụ và giá cả
4.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa trong tháng Mười một ước đạt trên 7.805,3 tỷ đồng, tăng 25,9% so với tháng 11/2023. Lũy kế 11 tháng năm 2024, doanh thu bán lẻ hàng hoá toàn tỉnh ước đạt trên 74.123,6 tỷ đồng, tăng 26,1% so với cùng kỳ năm trước. Tất cả 12/12 nhóm hàng hóa đều có doanh thu bán lẻ tăng, trong đó một số nhóm đạt mức tăng cao như: Lương thực, thực phẩm ước đạt 27.359,9 tỷ đồng, tăng 27,0%; hàng may mặc 3.690,8 tỷ đồng, tăng 30,3%; vật phẩm văn hóa giáo dục 472,5 tỷ đồng, tăng 50,8%; gỗ và vật liệu xây dựng 16.754,5 tỷ đồng, tăng 27,3%; xăng, dầu các loại 7.023,2 tỷ đồng, tăng 25,7%; nhiên liệu khác (trừ xăng, dầu) 657,8 tỷ đồng, tăng 35,2%; hàng hóa khác 1.047,6 tỷ đồng, tăng 41,7%; doanh thu dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 3.523,8 tỷ đồng, tăng 35,7%.
Ước tính doanh thu hoạt động lưu trú, ăn uống trong tháng Mười một năm nay đạt gần 841,8 tỷ đồng, tăng 21,4% so với cùng kỳ năm 2023; doanh thu dịch vụ du lịch lữ hành ước đạt 2,2 tỷ đồng, giảm 75,3%; doanh thu một số ngành dịch vụ khác ước đạt 555,0 tỷ đồng, tăng 10,8%. Lũy kế 11 tháng, doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống thực hiện trên toàn tỉnh ước đạt trên 8.677,2 tỷ đồng, tăng 27,8% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ du lịch lữ hành ước đạt trên 85,4 tỷ đồng, tăng 36,1%; doanh thu một số ngành dịch vụ khác ước đạt trên 5.666,2 tỷ đồng, tăng 12,2%.
4.2. Chỉ số giá
Chỉ số giá tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ chung (CPI) trên địa bàn tỉnh trong tháng Mười một tiếp tục duy trì mức tăng từ các tháng trước. So với tháng trước, CPI tăng 0,13%; so với tháng 12 năm trước, CPI tăng 3,07% và so với tháng 11/2023, CPI tăng 3,41%. Tính chung lại, CPI bình quân 11 tháng năm 2024 tăng 4,1% so với cùng kỳ năm 2023.
Trong mức tăng 0,13% của CPI tháng Mười một năm nay so với tháng trước, có 07 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, 02 nhóm có chỉ số giá giảm và 02 nhóm giữ chỉ số giá ổn định. Bảy nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm: Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng cao nhất 1,15% do giá thuốc lá tăng 3,49%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,49% do giá thuê nhà tăng 0,59%, dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 2,55% cùng với giá ga tăng 2,96% theo giá ga thế giới; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,29%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,18%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,13%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,11%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng nhẹ 0,01%. Hai nhóm có chỉ số giá giảm là: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,07%, trong đó nhóm lương thực tăng 0,33% chủ yếu do giá gạo trong nước tăng khi nguồn cung gạo trên thị trường thương mại toàn cầu dự báo giảm trong khi nhu cầu nhập khẩu gạo của nhiều quốc gia có xu hướng tăng, tạo cơ hội cho xuất khẩu gạo cho Việt Nam, theo đó giá gạo bình quân trên địa bàn tỉnh tăng 0,64% so với tháng trước; nhóm thực phẩm giảm 0,26% do trong tháng thời tiết nắng ấm tạo điều kiện cho các loại rau tươi phát triển, thêm vào đó một số loại rau vào chính vụ thu hoạch, năng suất cao nên nguồn cung dồi dào, vì thế giá một số loại rau giảm nhiều: Cà chua giảm 5,24%, rau muống giảm 5,61%, đỗ quả tươi giảm 5,43%; rau dạng củ, quả giảm 1,62%, rau tươi khác giảm 6,23%, rau chế biến các loại giảm 3,12%; nhóm ăn uống ngoài gia đình tăng 0,25%. Nhóm giao thông giảm 0,15% do giá xăng, dầu trong tháng được điều chỉnh giảm, cụ thể giá xăng đã giảm 0,28%, giá dầu diezel giảm 4,33%, kéo theo giá nhiên liệu giảm 0,25%. Hai nhóm còn lại giữ chỉ số giá ổn định là nhóm bưu chính viễn thông và nhóm giáo dục.
CPI bình quân 11 tháng năm 2024 tăng 4,1% so với cùng kỳ năm 2023. Có đến 10/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, cụ thể: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 5,26% (lương thực tăng 16,8%, thực phẩm tăng 5,4%, ăn uống ngoài gia đình tăng 0,47%); nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,22%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 5,4%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 4,01%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,47%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 8,49%; nhóm bưu chính viễn thông tăng 0,07%; nhóm giáo dục tăng 2,08%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 3,91% và nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 7,41%. Duy nhất nhóm giao thông giảm 0,03%.
Chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ: Giá vàng trong tháng đã có xu hướng giảm nhiệt. Chỉ số giá vàng tháng này chỉ ghi nhận mức tăng 0,65% so với tháng trước, tăng 37,59% so với tháng 12/2023 và tăng 43,87% so với cùng tháng năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng Mười một tăng 1,79% so với tháng 10/2024, tăng 4,96% so với tháng 12/2023 và tăng 4,0% so với tháng 11/2023. Bình quân 11 tháng năm 2024, chỉ số giá vàng tăng 31,81%, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 5,08%.
4.3. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Xuất khẩu: Tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa toàn tỉnh trong tháng Mười một ước thực hiện gần 261,5 triệu USD, giảm 7,3% so với cùng tháng năm 2023.
Trong 11 tháng năm 2024, tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa toàn tỉnh ước đạt gần 3.078,6 triệu USD, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn là: Giày dép các loại ước đạt 884,0 triệu USD; camera và linh kiện 657,7 triệu USD; xi măng và clanke 486,9 triệu USD; quần áo các loại 299,0 triệu USD; linh kiện điện tử 143,4 triệu USD, linh kiện phụ tùng ô tô các loại 132,5 triệu USD...
Một số mặt hàng có mức xuất khẩu tăng khá so với cùng kỳ như: Hàng thêu ren 245,5 nghìn chiếc, tăng 38,6%; giày dép các loại 60,6 triệu đôi, tăng 13,5%; linh kiện điện tử 143,4 triệu USD, tăng 31,5%; đồ chơi trẻ em 18,1 triệu con, tăng 60,4%; linh kiện phụ tùng ô tô các loại 132,5 triệu USD, tăng 51,5%; túi nhựa 2,0 nghìn tấn, tăng 61,1%; sản phẩm cói khác 1,6 triệu sản phẩm, tăng 9,8%... Tuy nhiên một số mặt hàng xuất khẩu lại giảm sút so với cùng kỳ như: Dứa, dưa chuột đóng hộp 7,8 nghìn tấn, giảm 11,3%; nước dứa cô đặc 1,9 nghìn tấn, giảm 10,3%; xi măng và clanke 12,1 triệu tấn, giảm 22,3%; thảm cói 47,0 nghìn m2, giảm 47,1%; camera và linh kiện 157,6 triệu sản phẩm, giảm 22,8%; Một số mặt hàng giảm về sản lượng nhưng tăng về giá trị như: Quần áo các loại, camera và linh liện, kính quang học.
Nhập khẩu: Tổng giá trị nhập khẩu hàng hóa trong tháng Mười một ước thực hiện trên 296,5 triệu USD, tăng 21,8% so với cùng tháng năm 2023.
Tính chung lại, 11 tháng năm nay tổng giá trị nhập khẩu hàng hóa ước đạt trên 2.960,1 triệu USD, tăng 15,9% so với cùng kỳ năm trước. Trị giá các nhóm mặt hàng nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn là: Linh kiện phụ tùng ô tô các loại 926,4 triệu USD; linh kiện điện tử 775,9 triệu USD; phụ liệu sản xuất giày, dép 579,4 triệu USD; vải may mặc các loại 135,3 triệu USD; ô tô 71,8 triệu USD.
4.4. Vận tải hành khách và hàng hóa
Vận tải hành khách: Ước thực hiện trong tháng Mười một đạt trên 5,3 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 27,3% so với tháng 11/2023 và luân chuyển gần 243,3 triệu lượt khách.km, tăng 23,1%. Lũy kế 11 tháng năm 2024, khối lượng hành khách vận chuyển thực hiện toàn tỉnh ước đạt gần 49,0 triệu lượt khách, tăng 21,6% và luân chuyển trên 2.269,6 triệu lượt khách.km, tăng 18,0% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vận tải đường bộ ước đạt 39,0 triệu lượt khách, tăng 21,6% và 2.230,8 triệu lượt khách.km, tăng 18,0%; vận tải đường thủy nội địa 10,0 triệu lượt khách, tăng 21,4% và 38,8 triệu lượt khách.km, tăng 19,8%.
Vận tải hàng hóa: Trong tháng Mười một, khối lượng hàng hóa vận chuyển toàn tỉnh ước thực hiện trên 17,2 triệu tấn, tăng 21,0% và luân chuyển gần 2.354,4 triệu tấn.km, tăng 21,4% so với cùng tháng năm trước. Tính chung cả 11 tháng, khối lượng hàng hoá vận chuyển toàn tỉnh đạt trên 158,6 triệu tấn, tăng 20,7% và luân chuyển trên 21.359,4 triệu tấn.km, tăng 21,4% so với 11 tháng năm 2023. Trong đó: Vận tải đường bộ ước đạt 57,7 triệu tấn, tăng 21,1% và 2.369,5 triệu tấn.km, tăng 20,1%; vận tải đường thủy nội địa 89,9 triệu tấn, tăng 19,8% và 13.065,2 triệu tấn.km, tăng 19,4%; vận tải biển 11,0 triệu tấn, tăng 26,9% và 5.924,7 triệu tấn.km, tăng 26,6%.
Doanh thu vận tải: Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải toàn tỉnh thực hiện trong tháng này ước đạt trên 2.050,2 tỷ đồng, tăng 21,7% so với cùng tháng năm trước. Tính trong 11 tháng, doanh thu hoạt động vận tải toàn tỉnh ước đạt trên 18.818,2 tỷ đồng, tăng 20,1% so với 11 tháng năm 2023. Trong đó phân theo loại hình vận tải: Vận tải hành khách ước đạt 2.273,5 tỷ đồng, tăng 20,0%; vận tải hàng hóa 14.680,6 tỷ đồng, tăng 20,3%; hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 1.743,6 tỷ đồng, tăng 18,7%; bưu chính chuyển phát 120,5 tỷ đồng, tăng 13,0%.
4.5. Hoạt động du lịch
Ước tính số lượt khách đến các điểm tham quan, du lịch trên địa bàn tỉnh trong tháng Mười một đạt 427,8 nghìn lượt khách, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm trước, chia ra: Khách trong nước 341,9 nghìn lượt, tăng 9,2%; khách quốc tế 85,9 nghìn lượt, tăng 46,6%. Tổng số lượt khách đến các cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh ước đạt trên 157,1 nghìn lượt khách, tăng 13,7%; số ngày khách lưu trú ước đạt 193,6 nghìn ngày khách, tăng 5,2%. Doanh thu du lịch trong tháng ước đạt 585,1 tỷ đồng, tăng 15,5% so với cùng tháng năm trước.
Tính chung 11 tháng năm nay, số lượt khách đến các điểm tham quan, du lịch trên địa bàn tỉnh ước đạt 8.143,8 nghìn lượt khách, tăng 30,4% so với 11 tháng năm 2023. Chia ra: Khách trong nước 7.068,2 nghìn lượt khách, tăng 21,1%; khách quốc tế 1.075,6 nghìn lượt, gấp gần 2,7 lần. Tổng số lượt khách đến các cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh ước đạt 1.822,9 nghìn lượt khách, tăng 47,5%; số ngày khách lưu trú ước đạt 2.092,4 nghìn ngày khách, tăng 29,2%. Doanh thu du lịch 11 tháng ước đạt gần 8.420,0 tỷ đồng, tăng 39,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu lưu trú 766,0 tỷ đồng, tăng 23,9%; doanh thu ăn uống 4.202,7 tỷ đồng, tăng 37,4%.
5. Một số vấn đề xã hội
5.1. Văn hoá thông tin
Hoạt động văn hóa thông tin trong tháng diễn ra các hoạt động văn hóa, văn nghệ chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn và các sự kiện trọng đại của đất nước cũng như của địa phương như: Kỷ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11; ngày Đại đoàn kết toàn dân tộc; đặc biệt Festival Ninh Bình lần thứ III năm 2024 với chủ đề "Dòng chảy di sản" gồm nhiều hoạt động văn hóa đặc sắc, nhằm tôn vinh giá trị di sản văn hóa, lịch sử, kiến trúc độc đáo của dân tộc, để lại dấu ấn tốt đẹp cho du khách và Nhân dân.
Trong tháng, Nhà hát Chèo thực hiện 16 buổi biểu diễn chương trình nghệ thuật đặc sắc phục vụ nhiệm vụ chính trị và các tầng lớp Nhân dân trong tỉnh. Trung tâm Văn hóa tỉnh đã thực hiện 16 buổi chiếu phim lưu động phục vụ Nhân dân trong tỉnh; Thư viện tỉnh thực hiện luân chuyển 75,6 nghìn lượt sách, báo tạp chí, phục vụ gần 46,3 nghìn lượt bạn đọc; Bảo tàng tỉnh đón tiếp và hướng dẫn 2.055 lượt khách tham quan.
5.2. Thể dục thể thao
Hoạt động thể thao trong tháng tiếp tục duy trì công tác đào tạo, huấn luyện nâng cao thành tích cho vận động viên tại Trung tâm huấn luyện và thi đấu thể dục thể thao; tổ chức các đoàn vận động viên tham gia thi đấu các giải trong nước, quốc tế đạt được 11 huy chương các loại, gồm 04 huy chương Vàng 03 huy chương Bạc và 04 Huy chương Đồng.
Bên cạnh đó, tổ chức thành công Giải cầu lông quốc tế "FELET Vietnam International Series 2024", tham gia giải gồm 250 vận động viên đến từ 16 quốc gia và vùng lãnh thổ; giải Quần vợt quốc tế ITF U18-J30 năm 2024, tham gia giải gồm 200 vận động viên đến từ 20 quốc gia; phối hợp tổ chức thành công trận bóng đá giữa CLB Phù Đổng Ninh Bình và CLB Bóng đá Huế trong khuôn khổ Giải bóng đá hạng nhất quốc gia Bia Sao vàng 2024-2025.
Tổ chức thành công các giải thể thao quần chúng như: Giải Cầu lông các câu lạc bộ Cúp phát thanh - Truyền hình tỉnh lần XXVIII năm 2024; Giải thể thao cán bộ, giáo viên, nhân viên ngành Giáo dục tỉnh Ninh Bình năm 2024; Giải chạy Tràng An Marathon 2024 - Bước chạy trong lòng di sản gồm 5.000 vận động viên tham gia.
5.3. Hoạt động y tế [1]
Ngành Y tế chủ động giám sát dịch bệnh tại các bệnh viện và cộng đồng, tăng cường giám sát và phát hiện sớm các trường hợp mắc bệnh truyền nhiễm; theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình, kịp thời ứng phó với dịch bệnh không để dịch bệnh lớn xảy ra.
Trong tháng, đa số các trường hợp mắc giảm so với cùng kỳ năm 2023, một số bệnh có số trường hợp mắc tăng, cụ thể: 02 trường hợp mắc bệnh do virut Adeno, 646 trường hợp mắc cúm, 02 trường hợp mắc lỵ amip, 02 trường hợp mắc uốn ván. Toàn tỉnh có 47 ca ngộ độc thực phẩm lẻ tẻ, không có trường hợp tử vong do ngộ độc thực phẩm. Tại các cơ sở y tế trên địa bàn toàn tỉnh đã khám bệnh cho 110,6 nghìn lượt bệnh nhân, điều trị nội trú cho 17,4 nghìn lượt, khám phụ khoa 3,6 nghìn lượt, khám thai gần 7,0 nghìn lượt, đặt dụng cụ tử cung 240 ca, triệt sản 16 ca.
Công tác phòng chống HIV/AIDS: Trong tháng, phát hiện mới 01 trường hợp nhiễm HIV, có 02 trường hợp tử vong do AIDS.
5.4. Giáo dục và đào tạo
Trong tháng, ngành Giáo dục tích cực thực hiện các phong trào thi đua “Dạy tốt - học tốt”, bên cạnh đó tổ chức phong trào thi đua chào mừng kỷ niệm 42 năm ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, cụ thể như: Tổ chức hội thi Giáo viên dạy giỏi Trung học phổ thông cấp tỉnh; Hội thi giáo viên dạy giỏi cơ sở giáo dục mầm non cấp tỉnh; Giải thể thao cán bộ, giáo viên, nhân viên ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh Ninh Bình năm 2024; tích cực chuẩn bị các điều kiện tổ chức Hội thi Thể dục thể thao học sinh cấp tiểu học, trung học tỉnh Ninh Bình năm 2024-2025...
Tham dự và tổ chức tốt các lớp tập huấn, bồi dưỡng, hội thảo chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ quản lý, giáo viên và tổ chức các chuyên đề ở các cấp học.
5.5. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội[2]
Trong tháng, Công an tỉnh triển khai đồng bộ, quyết liệt các biện pháp công tác, tập trung đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền các quy định của pháp luật về an ninh trật tự; bảo đảm an ninh, an toàn cho Lễ khai mạc Festival Ninh Bình lần thứ III, năm 2024 và địa điểm tổ chức các hoạt động của sự kiện; chuẩn bị kỹ các phương án, không để xảy ra các tình huống đột xuất, bất ngờ, ùn tắc giao thông, bảo vệ tuyệt đối an ninh, an toàn các đoàn đại biểu và Nhân dân đi lại thông suốt.
Tính từ ngày 15/10/2024 đến ngày 14/11/2024 toàn tỉnh đã xảy ra 17 vụ tai nạn giao thông làm chết 06 người, bị thương 19 người; đã xảy ra 36 vụ phạm pháp hình sự với 45 đối tượng; phát hiện 04 vụ buôn bán, vận chuyển, tàng trữ ma tuý với 04 đối tượng; không xảy ra cháy nổ./.