Hôm nay, thứ 5 25/07/2024
Tìm kiếm:  

THÔNG TIN THỐNG KÊ THÁNG


Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Bình tháng Mười một năm 2022

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản

Nhiệm vụ trọng tâm của sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản trong tháng là đẩy nhanh tiến độ gieo trồng cây vụ Đông, ưu tiên các sản phẩm cây trồng an toàn, có giá trị kinh tế cao, đầu ra ổn định; tiếp tục phòng, chống dịch bệnh trên đàn vật nuôi; tăng cường công tác quản lý, bảo vệ, phòng chống cháy rừng và chăm sóc, phòng bệnh cho các đối tượng nuôi thủy sản.

1.1. Nông nghiệp

1.1.1. Trồng trọt

Thu hoạch vụ Mùa: Trong tháng, các địa phương đã cơ bản hoàn thành việc thu hoạch lúa và các loại cây trồng vụ Mùa. Diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Mùa năm 2022 đạt 37,3 nghìn ha, giảm 1,5% (- 0,6 nghìn ha) so với cùng vụ năm trước; riêng diện tích lúa đạt 31,4 nghìn ha, giảm 1,2% (- 0,4 nghìn ha). Vụ Mùa năm nay, thời tiết tương đối thuận lợi, các loại cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt. Năng suất lúa toàn tỉnh sơ bộ vụ Mùa đạt 54,62 tạ/ha, tăng 0,4%     (+ 0,2 tạ/ha); sản lượng đạt 171,7 nghìn tấn, giảm  0,9% (- 1,5 nghìn tấn) so với cùng vụ năm trước. Năng suất ngô sơ bộ đạt 37,1 tạ/ha, tăng 3,2% (+ 1,2 tạ/ha); sản lượng đạt 4,7 nghìn tấn, giảm 3,7% (- 0,2 nghìn tấn) do diện tích ngô vụ Mùa năm 2022 chỉ đạt gần 1,3 nghìn ha, giảm 6,7% (- 0,1 nghìn ha) so với vụ Mùa năm 2021...

Sản xuất vụ Đông: Tính đến ngày 22/11, toàn tỉnh trồng được 5,8 nghìn ha cây vụ Đông, đạt 75,0% kế hoạch diện tích gieo trồng cây vụ Đông năm 2023 và bằng 93,0% so với cùng thời điểm năm trước. Trong đó gồm: 1,4 nghìn ha ngô; 0,3 nghìn ha khoai lang, 0,3 nghìn ha lạc và 3,7 nghìn ha rau, đậu các loại...        Diện tích cây vụ Đông trồng tập trung chủ yếu ở các địa phương là: huyện Nho Quan 1,2 nghìn ha, huyện Yên Khánh 1,5 nghìn ha, huyện Yên Mô 1,3 nghìn ha...

Đến nay, thời tiết tương đối thuận lợi, sâu bệnh ít xuất hiện, các loại cây trồng vụ Đông đang trong giai đoạn sinh trưởng và phát triển tốt. Các địa phương tiếp tục triển khai trồng cây vụ Đông đảm bảo trong khung thời vụ tốt nhất và tập trung chăm sóc, thu hoạch một số loại rau vụ Đông.

1.1.2. Chăn nuôi

Tại thời điểm báo cáo đàn trâu ước đạt 12,7 nghìn con, tăng 1,0% (+ 0,1 nghìn con); đàn bò ước đạt 37,0 nghìn con, tăng 1,2% (+0,4 nghìn con) so với cùng thời điểm năm trước; tổng đàn lợn ước đạt 274,8 nghìn con, tăng 3,3%      (+ 8,8 nghìn con); tổng đàn gia cầm ước đạt 6,4 triệu con, tăng 2,6% (+ 0,2 triệu con), trong đó đàn gà ước đạt 4,4 triệu con, tăng 1,3% (+ 0,1 triệu con).

Tình hình dịch bệnh:

Dịch tả lợn Châu Phi đã được không chế hoàn toàn, đến nay trên địa bàn tỉnh không có địa phương nào còn dịch. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để các hộ cá thể, gia trại, trang trại yên tâm tái đàn chuẩn bị cung cấp thực phẩm ra thị trường phục vụ dịp Tết Nguyên đán Quý Mão.

Ngày 07/11/2022 đã xuất hiện ổ dịch cúm gia cầm H5N1 tại xã Ninh Khang, huyện Hoa Lư, tổng số gia cầm phải tiêu hủy là 6.459 con vịt; 08 con ngỗng và 05 con gà. Các cấp, các ngành đã tập trung triển khai thực hiện đồng bộ các biện pháp khoanh vùng, khống chế, nhanh chóng dập tắt ổ dịch; kiểm soát các hoạt động mua, bán, giết mổ gia cầm, tiến hành tổng vệ sinh khử trùng tiêu độc môi trường trên địa bàn toàn xã Ninh Khang. Bên cạnh đó Chi cục Thú y tỉnh cũng đã cấp bổ sung 50.000 liều vắcxin để tiêm phòng bao vây chống dịch trên địa bàn.

1.2. Lâm nghiệp

Công tác chăm sóc, quản lý, bảo vệ và phòng cháy, chữa cháy rừng thường xuyên được các ngành, các cấp quan tâm, trong tháng không có vụ cháy rừng nào xảy ra.

Diện tích rừng trồng mới tập trung tháng 11 ước đạt 20,0 ha, tăng 77,4% so với cùng tháng năm trước (+ 8,7 ha); số cây trồng phân tán ước đạt 25,1 nghìn cây, tăng 17,9% (+3,8 nghìn cây); sản lượng gỗ khai thác ước đạt 1,8 nghìn m3, giảm 6,4% (- 0,1 nghìn m3); sản lượng củi khai thác ước đạt 2,0 nghìn ste, giảm 8,1% (- 0,2 nghìn ste). Tính chung 11 tháng năm nay, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 231 ha, tăng 4,3% (+ 9,5 ha) so với cùng kỳ năm trước; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 21,1 nghìn m3, giảm 9,6% (- 2,3 nghìn m3); sản lượng củi khai thác 23,7 nghìn ste, giảm 13,7% (- 3,8 nghìn ste).

1.3. Thủy sản

Trong tháng, các hộ nuôi cá ruộng ở các xã vùng trũng của huyện Nho Quan và Gia Viễn đang tiến hành thu hoạch để trả ruộng cho bà con chuẩn bị sản xuất vụ Đông Xuân. Đến nay, các diện tích nuôi thả thủy sản đang sinh trưởng và phát triển tốt, không có dịch bệnh xảy ra.

Sản lượng thủy sản tháng Mười một ước đạt 5,3 nghìn tấn, tăng 5,2% so với cùng tháng năm trước. Trong đó, sản lượng nuôi trồng ước đạt 4,8 nghìn tấn, tăng 5,5%; sản lượng khai thác ước đạt 0,5 nghìn tấn, tăng 2,1%.

Tính chung lại, sản lượng thủy sản 11 tháng đầu năm ước đạt 60,5 nghìn tấn, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: sản lượng nuôi trồng ước đạt 54,4 nghìn tấn, tăng 6,0%; sản lượng khai thác ước đạt 6,1 nghìn tấn, giảm 0,7%.

2. Sản xuất công nghiệp

Sản xuất công nghiệp của tỉnh trong tháng Mười một đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất trong 11 tháng năm 2022, trong đó ngành sản xuất xe có động cơ là ngành chiếm tỷ trọng lớn và đóng góp nhiều vào mức tăng chung của toàn ngành. Đặc biệt trong tháng, khánh thành Nhà máy Hyundai Thành Công số 2 với công suất 100.000 xe/năm. Nhà máy số 2 đi vào hoạt động sẽ góp phần làm tăng năng lực sản xuất của cả ngành công nghiệp, đồng thời có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

  Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) toàn tỉnh tháng Mười một ước tính tăng 8,27% so với cùng tháng năm trước. Trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,23%; sản xuất và phân phối điện tăng 18,99%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,35%; riêng ngành khai khoáng giảm 26,23%.

So với tháng trước (tháng 10/2022), chỉ số IIP toàn tỉnh tháng này tăng 0,85%, trong đó ngành khai khoáng tăng 1,90%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,52%; sản xuất và phân phối điện tăng 11,32%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,26%.

Tính chung lại 11 tháng đầu năm 2022 chỉ số IIP toàn tỉnh tăng 3,74% so với cùng kỳ năm 2021, trong đó ngành khai khoáng giảm 8,46%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,26%; công nghiệp sản xuất và phân phối điện giảm 7,93%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,48%.

Giá trị sản xuất công nghiệp: Tính theo giá so sánh 2010, giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh trong tháng Mười một ước đạt 9.053,7 tỷ đồng, tăng 11,4% so với tháng 11/2021. Trong đó: khai khoáng ước đạt 30,1 tỷ đồng, giảm 18,7%; công nghiệp chế biến, chế tạo 8.898,8 tỷ đồng, tăng 11,5%; sản xuất và phân phối điện 98,8 tỷ đồng, tăng 16,9%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 26,0 tỷ đồng, tăng 4,7%.

Tính chung lại, giá trị sản xuất công nghiệp 11 tháng đầu năm 2022 toàn tỉnh ước đạt 90.389,1 tỷ đồng, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: khai khoáng ước đạt 475,6 tỷ đồng, giảm 7,3%; công nghiệp chế biến, chế tạo 88.710,6 tỷ đồng, tăng 7,1%; sản xuất và phân phối điện 930,6 tỷ đồng, giảm 2,9%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 272,3 tỷ đồng, tăng 3,7%.

Sản phẩm công nghiệp chủ yếu: Một số sản phẩm công nghiệp trong tháng Mười một năm nay tăng khá so với cùng tháng năm trước như: thức ăn gia súc 3,2 nghìn tấn, tăng 52,0%; nước khoáng không có ga 0,4 triệu lít, tăng 15,2%; phân NPK 11,5 nghìn tấn, tăng 33,7%; phân lân nung chảy 10,1 nghìn tấn, gấp 3,5 lần; tai nghe điện thoại di động 0,8 triệu cái, gấp 2,7 lần; xe ô tô 5 chỗ ngồi trở lên 5,9 nghìn chiếc, tăng 64,9%; xe ô tô chở hàng 0,9 nghìn chiếc, tăng 33,6%; đồ chơi hình con vật 2,0 triệu con, tăng 29,1%; điện sản xuất 55,5 triệu Kwh, tăng 37,4%;...  Bên cạnh đó vẫn có một số sản phẩm giảm sút so với cùng kỳ như: đá các loại 0,3 triệu m3, giảm 25,6%; dứa đóng hộp 0,7 nghìn tấn, giảm 30,8%; hàng thêu 56,5 nghìn m2, giảm 66,4%; quần áo các loại 7,5 triệu cái, giảm 30,4%; giày dép các loại 5,7 triệu đôi, giảm 8,4%; phân Ure 42,5 nghìn tấn, giảm 8,6%; kính nổi 31,3 nghìn tấn, giảm 4,6%; xi măng 0,6 triệu tấn, giảm 14,1%; clanke 0,1 triệu tấn, giảm 53,6%; linh kiện điện tử 7,0 triệu cái, giảm 57,1%; modul camera 27,9 triệu cái, giảm 27,9%; kính máy ảnh 100,0 nghìn cái, giảm 39,4%; cần gạt nước ô tô 0,7 triệu cái, giảm 47,2%;…

Tính chung 11 tháng đầu năm 2022, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ như: dứa đóng hộp 10,9 nghìn tấn, tăng 17,7%; nước dứa tươi 3,7 triệu lít, tăng 57,4%; thức ăn gia súc 26,9 nghìn tấn, tăng 31,7%; hàng thêu 1,9 triệu m2, tăng 40,9%; quần áo các loại 90,1 triệu cái, tăng 5,7%; giày dép các loại 63,2 triệu đôi, tăng 7,9%; phân lân nung chảy 0,1 triệu tấn, tăng 5,6%; modul camera 295,5 triệu cái, tăng 15,7%; xe ô tô chở hàng 10,0 nghìn chiếc, tăng 46,3%; đồ chơi hình con vật 20,4 triệu con, tăng 36,8%;... Tuy nhiên một số sản phẩm lại có mức sản xuất giảm sút như: đá các loại 3,1 triệu m3, giảm 7,9%; ngô ngọt đóng hộp 2,4 nghìn tấn, giảm 10,0%; phân Ure 0,4 triệu tấn, giảm 12,6%; phân NPK 87,5 nghìn tấn, giảm 22,2%; xi măng 6,7 triệu tấn, giảm 2,5%; clanke 1,6 triệu tấn, giảm 42,0%; linh kiện điện tử 97,3 triệu cái, giảm 24,8%; tai nghe điện thoại di động 5,3 triệu cái, giảm 7,3%, kính máy ảnh 1,1 triệu cái, giảm 42,8%; xe ô tô 5 chỗ ngồi trở lên 49,2 nghìn chiếc, giảm 15,4%; cần gạt nước ô tô 8,8 triệu cái, giảm 30,9%; điện sản xuất 0,5 tỷ Kwh, giảm 13,7%;…

Sản lượng tồn kho một số sản phẩm chủ yếu đến 30/10/2022: giày, dép 1,9 triệu đôi; đạm Ure 26,5 nghìn tấn; phân NPK 28,3 nghìn tấn; phân lân nung chảy 18,9 nghìn tấn; kính xây dựng 67,3 nghìn tấn; xi măng 36,8 nghìn tấn; thanh, que sắt hoặc thép không hợp kim, được cán nóng 24,5 nghìn tấn; bản vi mạch điện tử 17,7 triệu cái; module camera 15,1 triệu cái; xe ô tô từ 5 chỗ ngồi trở lên 1.075 chiếc;...

3. Vốn đầu tư và phát triển

Tổng vốn đầu tư phát triển tháng Mười một năm 2022 toàn tỉnh ước đạt 2.440,9 tỷ đồng, tăng 8,8% so với cùng tháng năm trước. Chia ra: vốn Nhà nước đạt 525,4 tỷ đồng, giảm 11,5%; vốn ngoài Nhà nước đạt 1.796,2 tỷ đồng, tăng 14,7%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 119,3 tỷ đồng, tăng 45,0%.

Tính chung lại, tổng vốn đầu tư phát triển 11 tháng đầu năm 2022 toàn tỉnh ước đạt 26.730,0 tỷ đồng, tăng 9,0% so với cùng kỳ năm 2021. Chia ra: vốn Nhà nước đạt 4.831,0 tỷ đồng, tăng 5,5%; vốn ngoài Nhà nước đạt 18.963,0 tỷ đồng, tăng 2,6%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 2.936,0 tỷ đồng, gấp 2,0 lần.

Vốn đầu tư thực hiện trong tháng của một số dự án, công trình có khối lượng lớn là:

- Khu vực đầu tư công: Dự án xây dựng tuyến đường ĐT.482 kết nối quốc lộ 1A với quốc lộ 10 và kết nối quốc lộ 10 với quốc lộ 12B ước đạt 60,0 tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đường bộ ven biển qua tỉnh Ninh Bình (Giai đoạn 1) ước đạt 36,2 tỷ đồng; dự án xây dựng vành đai Thị trấn Yên Thịnh, huyện Yên Mô ước đạt 20,0 tỷ đồng; dự án xây dựng cơ sở hạ tầng khu du lịch sinh thái Tràng An và các dự án thành phần ước đạt 16,5 tỷ đồng; dự án xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ đấu giá quyền sử dụng đất tại khu dân cư phía sau Trường THPT Yên Khánh A ước đạt 14,2 tỷ đồng;…

- Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Dự án mua tài sản, lắp đặt máy móc thiết bị phục vụ sản xuất camera module của Công ty TNHH MCNEX Vina ước đạt 40,4 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà máy của Công ty TNHH Dream Plastic Kim Sơn ước đạt 14,9 tỷ đồng; dự án đầu tư xây dựng Nhà máy HTMT số 2 phục vụ lắp ráp, sản xuất ô tô của Công ty Cổ phần Sản xuất ô tô Hyundai Thành Công Việt Nam ước đạt 12,5 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà xưởng phục vụ sản xuất giày của Công ty TNHH giày Athena Việt Nam ước đạt 8,9 tỷ đồng;…

Một số dự án, công trình khởi công mới trong tháng như: Dự án xây dựng đường vành đai thị trấn Yên Thịnh huyện Yên Mô với tổng mức đầu tư 254,3 tỷ đồng; dự án xây dựng đường nội đồng phục vụ sản xuất nông nghiệp xã Gia Lạc huyện Gia Viễn (giai đoạn 4) với tổng mức đầu tư 29,0 tỷ đồng; dự án cải tạo nâng cấp kênh tiêu chính trạm bơm Gia Tân huyện Gia Viễn với tổng mức đầu tư 15,0 tỷ đồng; dự án nâng cấp kênh tưới tiêu cống Mả Lân xã Khánh Dương huyện Yên Mô với tổng mức đầu tư 14,8 tỷ đồng; dự án nâng cấp tuyến đê xóm chùa xã Yên Đồng huyện Yên Mô với tổng mức đầu tư 14,8 tỷ đồng;…

Các công trình, dự án có khối lượng lớn vốn đầu tư thực hiện trong 11 tháng đầu năm 2022 như sau:

- Khu vực đầu tư công: Dự án xây dựng tuyến đường bộ ven biển qua tỉnh Ninh Bình (Giai đoạn 1) ước đạt 214,4 tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đường ĐT.482 kết nối quốc lộ 1A với quốc lộ 10 và kết nối quốc lộ 10 với quốc lộ 12B ước đạt 146,0 tỷ đồng; dự án sửa chữa nâng cao an toàn đập tỉnh Ninh Bình ước đạt 140,0 tỷ đồng; dự án cải tạo nâng cấp đường ĐT.477 đoạn từ ngã ba Gián Khẩu đến hết phạm vi khu 50 ha mở rộng KCN Gián Khẩu ước đạt 110,0 tỷ đồng; dự án xây dựng cơ sở hạ tầng khu du lịch sinh thái Tràng An và các dự án thành phần ước đạt 68,7 tỷ đồng; dự án đầu tư xây dựng Âu Kim Đài phục vụ ngăn mặn giữ ngọt và ứng phó với tác động nước biển dâng cho 06 huyện, thành phố khu vực nam tỉnh Ninh Bình ước đạt 65,0 tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đường Đông – Tây tỉnh Ninh Bình ước đạt 64,3 tỷ đồng; dự án xây dựng công viên cây xanh, quảng trường, nhà văn hóa Trung tâm huyện Nho Quan ước đạt 60,5 tỷ đồng;...

- Khu vực doanh nghiệp Nhà nước: Các dự án sửa chữa lớn tài sản cố định của Công ty TNHH MTV Đạm Ninh Bình ước đạt trên 161,8 tỷ đồng; dự án xây dựng, sửa chữa công trình điện, mua sắm máy móc, thiết bị của Công ty TNHH MTV Điện lực Ninh Bình ước đạt gần 125,1 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc, sửa chữa lớn tài sản cố định của Công ty TNHH MTV Xi măng Tam Điệp ước đạt gần 14,9 tỷ đồng; dự án xây dựng công trình thủy lợi của Công ty TNHH MTV Khai thác Công trình Thủy lợi Ninh Bình ước đạt gần 13,7 tỷ đồng;…

- Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: Dự án đầu tư xây dựng Nhà máy HTMT số 2 phục vụ lắp ráp, sản xuất ô tô của Công ty Cổ phần Sản xuất ô tô Hyundai Thành Công Việt Nam ước đạt gần 1.382,9 tỷ đồng, dự án mua tài sản, lắp đặt máy móc thiết bị phục vụ sản xuất camera module của Công ty TNHH MCNEX Vina ước đạt 556,0 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất giày của Công ty TNHH giày Athena Việt Nam ước đạt 303,7 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà máy của Công ty TNHH Dream Plastic Kim Sơn ước đạt 221,5 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà máy sản xuất ghế ngồi ô tô của Công ty TNHH Deawon Auto Vina ước đạt 100,4 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà xưởng phục vụ sản xuất giày của Công ty TNHH Regis ước đạt 52,7 tỷ đồng...

4. Thương mại, dịch vụ và giá cả

Trong tháng, các ban, ngành, địa phương trong tỉnh thường xuyên theo dõi, bám sát tình hình giá cả thị trường, kịp thời thực hiện các biện pháp bình ổn giá, tập trung phát triển mạnh mẽ các ngành dịch vụ. Cùng với sự kiện văn hóa “Festival Tràng An kết nối di sản - Ninh Bình năm 2022” được tổ chức đã tác động tích cực đến hoạt động của các ngành dịch vụ. Vì thế hoạt động thương mại, dịch vụ, vận tải, du lịch trên địa bàn tỉnh tiếp tục diễn ra sôi động, phát triển với đà phục hồi mạnh mẽ so với cùng kỳ năm trước.

4.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng Mười một năm 2022 ước đạt gần 3.818,9 tỷ đồng, tăng 84,6% so với cùng tháng năm trước. Tính chung 11 tháng, tổng mức bán lẻ toàn tỉnh ước đạt trên 35.003,5 tỷ đồng, tăng 69,6% so với cùng kỳ năm 2021. Toàn bộ 12/12 nhóm hàng đều tăng, cụ thể: lương thực, thực phẩm ước đạt 10.406,0 tỷ đồng tăng 48,4%; hàng may mặc 2.670,2 tỷ đồng, gấp 2,5 lần; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình 3.768,5 tỷ đồng, tăng 85,0%; vật phẩm văn hoá, giáo dục 466,5 tỷ đồng, gấp 2,7 lần; gỗ và vật liệu xây dựng 7.161,8 tỷ đồng, gấp 2,0 lần; ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) 3.220,2 tỷ đồng, tăng 27,3%; phương tiện đi lại (trừ ô tô con, kể cả phụ tùng) 1.124,6 tỷ đồng, tăng 78,3%; xăng, dầu các loại 3.845,5 tỷ đồng, tăng 53,2%; nhiên liệu khác (trừ xăng, dầu) 361,1 tỷ đồng, tăng 98,6%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm 315,8 tỷ đồng, gấp 2,4 lần; hàng hoá khác 705,1 tỷ đồng, gấp 2,1 lần; doanh thu dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 958,2 tỷ đồng, tăng 92,7%.

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống trong tháng Mười một ước đạt 550,2 tỷ đồng, gấp gần 3,0 lần so với cùng tháng năm trước; doanh thu du lịch lữ hành ước đạt 0,5 tỷ đồng; doanh thu một số ngành dịch vụ khác ước đạt gần 465,3 tỷ đồng, tăng 34,0%.

Trong 11 tháng đầu năm nay, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 4.407,4 tỷ đồng, gấp trên 2,1 lần cùng kỳ (trong đó: doanh thu lưu trú 456,5 tỷ đồng, gấp 2,0 lần; doanh thu dịch vụ ăn uống 3.950,9 tỷ đồng, gấp trên 2,1 lần); doanh thu du lịch lữ hành ước đạt gần 3,5 tỷ đồng, gấp gần 3,6 lần; doanh thu một số ngành dịch vụ khác ước đạt gần 3.704,7 tỷ đồng, tăng 49,8%.

4.2. Chỉ số giá

Sau hai tháng giảm trước đó, chỉ số giá tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ chung (CPI) trên địa bàn tỉnh trong tháng Mười một đã tăng 0,04% so với tháng trước. So với tháng 12/2021, CPI tăng 5,25% và tăng 4,65% so với tháng 11/2021. Bình quân 11 tháng năm 2022 CPI tăng 3,36% so với cùng kỳ năm trước.

Thị trường hàng hóa, giá cả trên địa bàn tỉnh trong tháng diễn biến tương đối ổn định. So với tháng trước, trong số 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có 05 nhóm có chỉ số giá tăng, 02 nhóm có chỉ số giá giảm và 04 nhóm giữ chỉ số ổn định. Trong số các nhóm có chỉ số giá tăng, nhóm giao thông tăng mạnh nhất tác động chính làm CPI chung toàn tỉnh tăng, cụ thể: nhóm giao thông tăng 2,28% do sau 03 kỳ điều chỉnh giá trong tháng giá xăng tăng 6,19%, giá dầu diezel tăng 5,26% kéo theo giá nhóm nhiên liệu tăng 6,03%; tiếp theo nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,12% do tình trạng thiếu thuốc chữa bệnh tại các cơ sở y tế (giá thuốc các loại tăng 0,51%); nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,09%; hai nhóm may mặc, mũ nón và giày dép và nhóm hàng hóa và dịch vụ khác lần lượt tăng nhẹ 0,02% và 0,01%. Hai nhóm có chỉ số giá giảm gồm: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,35% (lương thực tăng 2,13%; thực phẩm giảm 0,75%; ăn uống ngoài gia đình giảm 0,28%) và nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,2%. Bốn nhóm còn lại có chỉ số giá giữ nguyên là: nhóm đồ uống và thuốc lá, nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình, nhóm bưu chính viễn thông và nhóm giáo dục.

CPI bình quân 11 tháng năm 2022 tăng 3,36% so với cùng kỳ năm trước. Có đến 09 nhóm trong tổng số 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số tăng, gồm: nhóm giao thông tăng cao nhất với 11,45%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 5,13%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,52% (lương thực tăng 2,79%; thực phẩm tăng 3,89%; ăn uống ngoài gia đình tăng 2,83%); nhóm giáo dục tăng 2,09%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 1,75%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,56%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 1,03%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,92%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,42%. Hai nhóm còn lại có chỉ số giá giảm là: nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,84%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,28%.

Chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ: Chỉ số giá vàng tháng 11/2022 tăng 1,07% so với tháng trước, giảm 3,44% so với tháng 12/2021 và giảm 5,2% so với cùng tháng năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng này tăng 2,26% so với tháng 10/2022, tăng 6,62% so với tháng 12 năm trước và tăng 7,75% so với tháng 11/2021. Bình quân 11 tháng năm 2022, chỉ số giá vàng giảm 0,42%, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 3,25% so với cùng kỳ năm 2021.

4.3. Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Xuất khẩu: Giá trị xuất khẩu toàn tỉnh tháng Mười một ước đạt trên 271,3 triệu USD, giảm 9,8% so với cùng tháng năm 2021, trong đó giá trị xuất khẩu mặt hàng quần áo các loại giảm 12,1%, xi măng và clanke giảm 24,9%, camera và linh kiện giảm 18,1%... Tính chung lại, tổng giá trị xuất khẩu 11 tháng năm nay ước đạt gần 2.926,7 triệu USD, tăng 11,2% so với cùng kỳ năm trước. Một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn là: quần áo các loại đạt 385,5 triệu USD; xi măng, clanke đạt 485,1 triệu USD; giày, dép các loại đạt 824,3 triệu USD; camera và linh kiện 808,4 triệu USD; linh kiện điện tử 77,8 triệu USD…

Trong 11 tháng, sản lượng xuất khẩu một số mặt hàng đạt khá so với cùng kỳ năm trước như: dứa, dưa chuột đóng hộp 14,4 nghìn tấn, tăng 17,2%; nước dứa cô đặc 2,2 nghìn tấn, tăng 86,3%; quần áo các loại 81,7 triệu chiếc, tăng 29,6%; thảm cói 118,4 nghìn m2, gấp 9,5 lần; găng tay các loại 4,5 triệu đôi, tăng 10,3%; giày dép các loại 73,5 triệu đôi, tăng 32,1%; camera và linh kiện 297,2 triệu sản phẩm, tăng 13,9%; phôi nhôm 16,6 nghìn tấn, tăng 45,2%; đồ chơi trẻ em 12,8 triệu con, tăng 39,1% ... Tuy nhiên một số sản phẩm lại có mức xuất khẩu giảm sút như: xi măng, clanke 11,0 triệu tấn, giảm 23,0%; kính quang học 1,1 triệu chiếc, giảm 35,8%; sản phẩm cói khác 1,5 triệu sản phẩm, giảm 24,5%; hàng thêu ren 144,7 nghìn sản phẩm, giảm 7,8%; túi nhựa 1,7 nghìn tấn, giảm 10,5%...

Nhập khẩu: Giá trị nhập khẩu trong tháng ước đạt 342,6 triệu USD, tăng 20,9% so với cùng tháng năm trước. Tổng giá trị nhập khẩu 11 tháng ước đạt 3.151,0 triệu USD, tăng 11,1% so với 11 tháng năm 2021. Trong đó, giá trị các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là: linh kiện phụ tùng ô tô các loại 1.009,1 triệu USD; linh kiện điện tử 918,7 triệu USD; phụ liệu sản xuất giày dép 556,3 triệu USD; ô tô 214,7 triệu USD; vải và phụ liệu may 134,3 triệu USD...

4.4. Vận tải hành khách và hàng hóa

Vận tải hành khách: Khối lượng vận chuyển hành khách trong tháng ước thực hiện gần 3,1 triệu lượt khách, gấp 2,2 lần và luân chuyển trên 154,5 triệu lượt khách.km, tăng 96,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng 2022, vận tải hành khách toàn tỉnh ước thực hiện trên 25,5 triệu lượt khách, tăng 66,9% so với 11 tháng 2021 và luân chuyển gần 1.277,2 triệu lượt khách.km, tăng 53,0%. Trong đó, vận tải đường bộ ước đạt 21,6 triệu lượt khách, tăng 52,3% và 1.262,3 triệu lượt khách.km, tăng 52,0%; vận tải đường thủy nội địa 3,9 triệu lượt khách, gấp 3,6 lần và 14,9 triệu lượt khách.km, gấp 3,5 lần[1].  

Vận tải hàng hóa: Tháng Mười một ước thực hiện trên 8,4 triệu tấn vận chuyển, tăng 74,7% và luân chuyển 1.066,0 triệu tấn.km, tăng 57,8% so với tháng 11/2021. Ước tính trong 11 tháng năm 2022, khối lượng hàng hoá vận chuyển toàn tỉnh đạt trên 66,3 triệu tấn, tăng 40,6% và luân chuyển trên 8.589,9 triệu tấn.km, tăng 34,3% so với cùng kỳ. Trong đó: vận tải đường bộ ước thực hiện 32,3 triệu tấn, tăng 35,5% và 1.566,2 triệu tấn.km, tăng 28,2%; vận tải đường thủy nội địa 32,2 triệu tấn, tăng 47,5% và 6.071,9 triệu tấn.km, tăng 38,63%; vận tải đường biển gần 1,8 triệu tấn, tăng 21,4% và 951,8 triệu tấn.km, tăng 19,9%.

Doanh thu vận tải: Trong tháng Mười một ước đạt 1.000,5 tỷ đồng, tăng 71,3%  so với tháng 11/2021. Ước tính trong 11 tháng đầu năm, doanh thu vận tải toàn tỉnh đạt gần 8.267,1 tỷ đồng, tăng 44,6% so với cùng kỳ. Chia theo loại hình vận tải: vận tải hành khách ước thực hiện 1.205,6 tỷ đồng, tăng 71,0%; vận tải hàng hóa 6.818,5 tỷ đồng, tăng 40,5%; doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải 237,2 tỷ đồng, tăng 52,4%; doanh thu bưu chính, chuyển phát 5,8 tỷ đồng, tăng 20,7%.

4.5. Hoạt động du lịch

Ước tính số lượng khách đến thăm quan, du lịch tại các điểm du lịch trên địa bàn tỉnh trong tháng Mười một đạt 335,2 nghìn lượt khách, gấp gần 10,8 lần so với cùng tháng năm 2021. Tính chung lại 11 tháng năm nay, tổng số khách đến các điểm thăm quan, du lịch trên địa bàn tỉnh ước đạt gần 3.410,4 nghìn lượt khách, gấp 3,6 lần so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: khách trong nước ước đạt 3.356,8 nghìn lượt khách, gấp 3,6 lần; khách quốc tế ước đạt gần 53,6 nghìn lượt khách, gấp gần 4,0 lần. Tổng số khách đến các cơ sở lưu trú ước đạt 901,2 nghìn lượt khách, gấp 4,5 lần; số ngày khách lưu trú ước đạt gần 1.200,7 nghìn ngày.khách, gấp 4,5 lần. Doanh thu du lịch ước thực hiện gần 2.734,4 tỷ đồng, gấp 4,2 lần, trong đó: doanh thu lưu trú ước đạt gần 456,3 tỷ đồng, gấp 3,1 lần; doanh thu ăn uống 1.198,7 tỷ đồng, gấp 5,0 lần.

5. Một số vấn đề xã hội

5.1. Văn hoá thông tin

Trong tháng diễn ra các hoạt động văn hóa, văn nghệ chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn và các sự kiện trọng đại của đất nước cũng như của địa phương như: kỷ niệm 40 năm ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982 - 20/11/2022); Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc; đặc biệt là các hoạt động trong khuôn khổ “Festival Tràng An kết nối di sản - Ninh Bình năm 2022”.

 Sự kiện Festival Tràng An kết nối di sản - Ninh Bình năm 2022 với chủ đề "Hoa Lư vang mãi ngàn năm" lần đầu tiên được tổ chức tại Ninh Bình có sự tham gia của 15 tỉnh, thành phố đại diện các vùng, miền trong cả nước cùng với đoàn nghệ thuật tỉnh Udomxay - Lào, địa phương kết nghĩa với Ninh Bình, với nhiều hoạt động văn hóa đặc sắc nhằm đẩy mạnh các hoạt động giao lưu văn hóa và tôn vinh các di sản văn hóa, xúc tiến, quảng bá du lịch giữa các tỉnh, thành phố trong nước và quốc tế.

Trong tháng, Nhà hát Chèo thực hiện 12 buổi biểu diễn nghệ thuật và chương trình ca múa nhạc phục vụ nhiệm vụ chính trị và Nhân dân trong tỉnh. Trung tâm phát hành phim và chiếu bóng đã thực hiện 29 buổi chiếu phim lưu động phục vụ Nhân dân trong tỉnh. Thư viện tỉnh thực hiện luân chuyển 93,0 nghìn lượt sách, báo tạp chí, phục vụ bạn đọc. Bảo tàng tỉnh đón tiếp và hướng dẫn 960 lượt khách tham quan.

5.2. Thể dục thể thao

Hoạt động thể thao thành tích cao trong tháng tiếp tục duy trì công tác đào tạo, huấn luyện nâng cao thành tích cho vận động viên tại Trung tâm huấn luyện và thi đấu thể dục thể thao. Các đoàn vận động viên tham gia thi đấu các giải trong nước, quốc tế đạt được các thành tích nổi bật như: đoàn VĐV Cờ vua tham dự giải vô địch Cờ vua trẻ Châu Á nam, nữ các nhóm tuổi 8, 10, 12, 14, 16, 18 năm 2022 tại thành phố Bali – Indonesia đạt 11 huy chương các loại (08 HCVvà 03 HCB), tham dự giải vô địch Cờ vua trẻ Đông Á tại Thái Lan, đạt 07 huy chương các loại (05 HCV và 02 HCB); đoàn VĐV Bóng chuyền nữ Ninh Bình Doveco tham gia thi đấu giải Bóng chuyền nữ cúp LienVietPostBank năm 2022 tại tỉnh Bắc Ninh, kết quả: xếp hạng Nhất của giải.

Bên cạnh đó, nhiều hoạt động thể thao quần chúng được tổ chức thu hút đông đảo các tầng lớp Nhân dân tham gia như: giải Tràng An Marathon lần thứ II, năm 2022; giải Cầu lông, Bóng bàn cán bộ, giáo viên, nhân viên ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh Ninh Bình lần thứ XVI, năm 2022; giải Quần vợt truyền thống các câu lạc bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ XVI, năm 2022 - Cúp Đạm Ninh Bình…

Triển khai công tác tổ chức môn Karate trong chương trình Đại hội thể thao toàn quốc lần thứ IX năm 2022, diễn ra tại Ninh Bình từ 26/11/2022 đến 30/11/2022.

5.3. Hoạt động y tế

Trong tháng, ngành Y tế tiếp tục thực hiện các văn bản chỉ đạo của Trung ương và của tỉnh về công tác phòng, chống dịch bệnh, các bệnh truyền nhiễm mùa thu đông, đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao hiểu biết cho người dân về lợi ích của việc tiêm vắc xin phòng bệnh, giúp người dân hiểu, thực hiện tốt công tác tiêm chủng vắc xin trong chương trình tiêm chủng mở rộng của Chính phủ và khuyến khích người dân đi tiêm phòng dịch vụ đối với các bệnh chưa được triển khai tiêm phòng trong chương trình tiêm chủng mở rộng; tiếp tục triển khai tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho đối tượng từ 18 tuổi trở lên và triển khai chiến dịch tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho trẻ từ 5 đến dưới 12 tuổi và trẻ em dưới 5 tuổi; đảm bảo công tác y tế, an toàn thực phẩm phục vụ “Festival Tràng An kết nối di sản - Ninh Bình năm 2022”.

Trong tháng Mười, toàn tỉnh xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm làm 13 người phải nhập viện; 19 ca ngộ độc thực phẩm lẻ tẻ, không có trường hợp tử vong do ngộ độc thực phẩm; ghi nhận 03 ca mắc thủy đậu, 79 ca sốt xuất huyết, 05 ca bệnh virus Adeno… Tại các cơ sở y tế trên địa bàn toàn tỉnh đã khám bệnh cho gần 157,7 nghìn lượt bệnh nhân, điều trị nội trú cho 13,4 nghìn lượt, khám phụ khoa 3,8 nghìn lượt, khám thai 4,6 nghìn lượt, đặt dụng cụ tử cung 496 ca, triệt sản 39 ca.

Công tác phòng chống HIV/AIDS: Trong tháng Mười, phát hiện mới 05 người nhiễm HIV, có 04 trường hợp tử vong do AIDS.

5.4. Giáo dục, đào tạo

Ngành Giáo dục tích cực thực hiện các phong trào thi đua “Dạy tốt - Học tốt” và “Đổi mới, sáng tạo trong quản lý, dạy và học”, thi đua chào mừng kỷ niệm 40 năm ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982 - 20/11/2022).

Trong tháng, đã tổ chức thi chọn đội tuyển học sinh giỏi chính thức của tỉnh chuẩn bị tham dự kỳ thi học sinh giỏi quốc gia THPT năm học 2022-2023. Có 97 học sinh được chọn vào 10 đội tuyển thuộc 10 bộ môn: Lịch sử, Địa lý, Toán, Vật lý, Hóa học, Sinh học, Tin học, Ngữ văn, Tiếng Anh, Tiếng Pháp.

Tổ chức thi nghề phổ thông cấp Trung học phổ thông năm học 2022-2023; tổ chức Hội thi giáo viên giỏi cơ sở giáo dục phổ thông, giáo viên chủ nhiệm lớp giỏi cơ sở giáo dục thường xuyên tỉnh Ninh Bình năm học 2022-2023; tổ chức Giao lưu nhân viên thư viện giỏi tiểu học cấp tỉnh.

Quỹ khuyến học, khuyến tài Đinh Bộ Lĩnh tổ chức Chương trình “Chắp cánh ước mơ” lần thứ 12, năm 2022 vinh danh khen thưởng các vận động viên, các em học sinh, sinh viên đạt thành tích xuất sắc năm học 2021-2022. Có 298 em được khen thưởng với tổng giá trị giải thưởng 1.353 triệu đồng.

5.5. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội

Thực hiện chỉ đạo của Bộ Công an về mở đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm, đảm bảo an ninh trật tự trước, trong và sau dịp Tết Nguyên đán Quý Mão 2023 (từ ngày 15/11/2022 đến ngày 05/02/2023), Công an tỉnh đã triển khai đồng bộ các biện pháp công tác, tổ chức tấn công trấn áp mạnh các loại tội phạm; phát hiện, giải quyết kịp thời các tình huống liên quan đến ANTT với mục tiêu cao nhất là không để xảy ra đột xuất, bất ngờ trong mọi tình huống, góp phần đảm bảo tốt an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh. Đặc biệt trong tháng lực lượng công an tỉnh đã đảm bảo an ninh, an toàn cho sự kiện “Festival Tràng An kết nối di sản - Ninh Bình năm 2022”.

Tính từ 15/10/2022 đến 14/11/2022, trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 06 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm chết 06 người, bị thương 09 người; xử lý 39 vụ phạm pháp hình sự; phát hiện và xử lý 11 vụ buôn bán, vận chuyển, tàng trữ ma tuý với 14 đối tượng. Xảy ra 01 vụ cháy, không có thương vong về người, thiệt hại tài sản không đáng kể.

Số liệu cộng dồn từ 15/12/2021 đến 14/11/2022 toàn tỉnh đã xảy ra 85 vụ tai nạn giao thông đường bộ và 01 vụ tai nạn giao thông đường sắt, làm chết 32 người và bị thương 81 người (giảm 30 vụ, 03 người chết và 13 người bị thương so với cùng kỳ năm 2021); xử lý 295 vụ phạm pháp hình sự (giảm 22 vụ); phát hiện và xử lý 291 vụ buôn bán, vận chuyển và tàng trữ chất ma túy với 346 đối tượng (giảm 10 vụ và 68 đối tượng). Xảy ra 06 vụ cháy nổ gây thiệt hại về tài sản ước tính 670 triệu đồng, trong đó không có thiệt hại về người./.



[1] Vận tải hành khách đường thủy nội địa chủ yếu phục vụ khách du lịch, trong khi năm 2021 chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19, các khu, điểm du lịch trên địa bàn tỉnh đã ngừng đón khách từ ngày 18/7/2021 nên khối lượng hành khách vận chuyển và luân chuyển cùng kỳ năm 2021 giảm mạnh.





CÁC BÀI KHÁC


324785

6
24
324785