Hôm nay, thứ 5 25/07/2024
Tìm kiếm:  


Họp báo công bố số liệu 6 tháng đầu năm 2022

 

Chiều ngày 29/6/2022, Cục Thống kê Ninh Bình đã tổ chức Họp báo công bố số liệu thống kê kinh tế xã hội tỉnh Ninh Bình 6 tháng đầu năm 2022.

Video buổi họp báo

     Những tháng đầu năm 2022, dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp trên địa bàn tỉnh, số ca nhiễm tại cộng đồng tăng nhanh, phát sinh nhiều ổ dịch; bên cạnh đó tình hình chính trị thế giới có nhiều biến động, nhất là căng thẳng chính trị giữa các nước lớn, xung đột vũ trang giữa Nga và U-crai-na đã tác động tiêu cực đến chuỗi cung ứng toàn cầu, nguồn cung nguyên, nhiên vật liệu dùng cho sản xuất bị gián đoạn, giá cả nhiều mặt hàng tăng cao, đặc biệt là giá xăng, dầu… đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của Nhân dân và hoạt động sản xuất kinh doanh trong tỉnh.

Để chủ động, thích ứng an toàn, linh hoạt, thực hiện hiệu quả các quy định của Trung ương, đảm bảo phù hợp với thực tiễn của tỉnh trong điều kiện mới, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp phòng chống dịch, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn diện trên các lĩnh vực, đặc biệt chú trọng công tác hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp duy trì và phát triển, đẩy mạnh sản xuất. Qua đó, dịch Covid-19 cơ bản được kiểm soát tốt, hầu hết các ngành, lĩnh vực có xu hướng phục hồi và tăng trưởng trở lại. Dưới đây là một số kết quả kinh tế - xã hội đã đạt được trong 6 tháng đầu năm 2022:

1. Các chỉ tiêu tổng hợp

1.1.Tăng trưởng kinh tế [2]

Tổng sản phẩm xã hội (GRDP) trên địa bàn toàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2022 (theo giá so sánh 2010) ước tính đạt 22.571,0 tỷ đồng, tăng 3,53% so với 6 tháng đầu năm 2021. Trong đó, giá trị tăng thêm khu vực I (nông, lâm nghiệp và thủy sản) đạt 2.457,2 tỷ đồng, tăng 1,76% đóng góp 0,20 điểm phần trăm vào tốc độ tăng GRDP của toàn nền kinh tế; khu vực II (Công nghiệp - xây dựng) đạt 8.479,2 tỷ đồng, tăng 3,38% đóng góp 1,27 điểm phần trăm (riêng công nghiệp ước đạt 6.700,6 tỷ đồng, tăng 3,64% đóng góp 1,08 điểm phần trăm); khu vực III (Dịch vụ) đạt 7.698,2 tỷ đồng, tăng 5,73% đóng góp 1,91 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 3.936,4 tỷ đồng, tăng 0,85% đóng góp 0,15 điểm phần trăm.

 1.2. Cơ cấu kinh tế

Tổng sản phẩm xã hội (GRDP) trên địa bàn toàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2022 (theo giá hiện hành) ước tính đạt 36.239,1 tỷ đồng. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 3.828,1 tỷ đồng, chiếm 10,56%; khu vực công nghiệp - xây dựng đạt 13.721,2 tỷ đồng, chiếm 37,86%; khu vực dịch vụ đạt 12.718,0 tỷ đồng, chiếm 35,1%; thuế sản phẩm (trừ trợ cấp sản phẩm) đạt 5.971,8 tỷ đồng, chiếm 16,48%.

2. Thu, chi ngân sách Nhà nước trên địa bàn

Bi cnh chung ca toàn cu vi nhng bn v chính tr, kinh tế và nh hưởng ca dch bnh Covid-19 kéo dài đã táđộng không nh đến nền kinh tế c nước nói chung và của tnh Ninh Bình nói riêng. Một số doanh nghiệp trọng điểm, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách của tỉnh gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh thu giảm sút; Các gói kích cầu về giảm thuế, phí trong năm 2022 lớn hơn nhiều so với năm 2021 là thách thức không nhỏ đối với ngành thuế trong triển khai thực hiện dự toán thu NSNN trong 6 tháng đầu năm 2022.

Tổng thu ngân sách trên địa bàn tnh (đã loại trừ hoàn thuế GTGT) ướđạt 10.450,5 t đồng, đạt 52,2% d toán năm và gim 1,9% so vi cùng kỳ năm trước. Trong đó: thu nđịướđạt 7.521,1 t đồng (chiếm 72,0% tng thu), bằng 47,3% d toán năm và tăng 4,7%; thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu ước đạt 2.929,2 tỷ đồng (chiếm 28,0% tổng thu), đạt 71,4% dự toán và giảm 15,5%.

Tng chi ngân sách địa phương trong 6 tháng đầu năm 2022 ướđạt 8.768,8 t đồng, đạt 53,8% so vi d toán năm HĐND tỉnh giao và tăng 19,7% so với 6 tháng 2021. Trong đó, chi cân đối ngân sách địa phương ước thc hin 7.986,5 t đồng, đạt 54,8% d toán và tăng 16,0%.

3. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản và xây dựng nông thôn mới

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 6 tháng đầu năm 2022 tương đối thuận lợi, diện tích nhiễm dịch hại trên cây trồng thấp hơn cùng vụ năm trước. Tuy thời tiết đầu vụ Đông Xuân có một vài đợt rét đậm, rét hại tác động tiêu cực đến sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng, nhưng đến nay thời tiết tương đối thuận lợi, các cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt. Tình hình dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm từng bước được kiểm soát. Công tác bảo vệ và phòng chống cháy rừng tiếp tục được quan tâm; sản xuất thuỷ sản đạt khá so với cùng kỳ năm trước.

3.1. Nông nghip

3.1.1. Trồng trọt

Cây hàng nămTổng diện tích gieo trồng vụ Đông Xuân năm 2022 ước đạt 55,2 nghìn ha, giảm 0,7 nghìn ha (- 1,2%) so với cùng vụ năm trước. Trong đó: diện tích cây lương thực có hạt đạt 42,8 nghìn ha, giảm 0,6 nghìn ha (- 1,4%); riêng diện tích lúa đạt 39,8 nghìn ha, giảm 0,2 nghìn ha (- 0,4%), đạt 99,5% kế hoạch gieo cấy lúa vụ Đông Xuân năm 2022.

Cây lúa vụ Đông Xuân: Ước tính năng suất lúa vụ Đông Xuân năm 2022 bình quân toàn tỉnh đạt 66,66 tạ/ha, giảm 0,15 tạ/ha (- 0,2%); sản lượng lúa ước đạt 265,2 nghìn tấn, giảm 1,6 nghìn tấn (- 0,6%) so với cùng vụ năm trước.

Cây ngô: 6 tháng đầu năm nay, diện tích ngô gần đạt 3,0 nghìn ha, giảm 0,5 nghìn ha (- 13,2 %); năng suất ước đạt 38,4 tạ/ha, tăng 0,2 tạ/ha (+ 0,5%); sản lượng ước đạt 11,5 nghìn tấn, giảm 1,7 nghìn tấn (- 12,8%).

Tính chung lại: Sản lượng lương thực có hạt 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 276,6 nghìn tấn, giảm 3,3 nghìn tấn (- 1,2%) so với cùng kỳ năm trước.

Cây rau, đậu và cây công nghiệp: Diện tích cây rau, đậu đạt 7,4 nghìn ha, giảm 0,04 nghìn ha (- 0,6%), sản lượng rau, đậu ước đạt 149,2 nghìn tấn, tương đương với cùng kỳ năm trước. Diện tích cây công nghiệp đạt 2,4 nghìn ha, giảm 0,4 nghìn ha (- 13,8%), sản lượng cây công nghiệp đạt 6,6 nghìn tấn, giảm 11%.

Cây lâu năm: Diện tích cây lâu năm 6 tháng đầu năm 2022 vẫn giữ ổn định so với cùng kỳ năm trước, ước đạt 7,5 nghìn ha, trong đó diện tích cây ăn quả ước đạt 6,8 nghìn ha. Do điều kiện thời tiết thuận lợi, ít sâu bệnh nên ước tính sản lượng cây ăn quả thu hoạch trong 6 tháng đầu năm đạt 52,9 nghìn tấn, tăng 0,35 nghìn tấn (+ 0,7%) so với cùng kỳ năm trước.

3.1.2. Chăn nuôi                                                                 

Tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2022 tuy đã từng bước được phục hồi, bệnh Viêm da nổi cục tiếp tục được kiểm soát tốt, nhưng ngành chăn nuôi vẫn gặp khó khăn khi dịch tả lợn Châu Phi có xu hướng diễn biến phức tạp; giá thức ăn chăn nuôi tiếp tục duy trì ở mức cao, từ đầu năm đến nay, các doanh nghiệp sản xuất thức ăn đã nhiều lần điều chỉnh tăng giá bán, do vậy đã ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất chăn nuôi và công tác tái đàn, duy trì, khôi phục sản xuất.

Tính đến thời điểm báo cáo, đàn trâu ước đạt 12,6 nghìn con, tăng 0,3%; đàn bò ước đạt 36,8 nghìn con, tăng 0,7%; đàn lợn ước đạt 274,1 nghìn con, tăng 0,3 nghìn con (+ 0,1%); đàn gia cầm ước đạt 6,2 triệu con, tăng 1,8%; trong đó, đàn gà đạt 4,2 triệu con, tăng 1,8% so với cùng thời điểm năm trước.

Tình hình dịch bệnh: Từ đầu năm 2022 đến thời điểm giữa tháng 4/2022, dịch tả lợn Châu Phi trên địa bàn được kiểm soát tốt, tuy nhiên, từ cuối tháng 4/2022 dịch bệnh tái phát trở lại. Tính đến ngày 24/6/2022, toàn tỉnh còn 54 xã, phường, thị trấn dịch bệnh chưa qua 21 ngày. Số lượng lợn tiêu hủy tính từ ngày 01/01/2022 đến hết ngày 24/6/2022 là 12,3 nghìn con, trọng lượng tiêu hủy 553,0 tấn.

Trong 6 tháng đầu năm 2022, trên địa bàn tỉnh xuất hiện 04 ổ dịch cúm gia cầm A/H5N1 tại xã Yên Lộc, huyện Kim Sơn; xã Khánh Nhạc, xã Khánh Mậu, huyện Yên Khánh và thị trấn Me huyện Gia Viễn; tổng số gia cầm ốm, chết bắt buộc phải tiêu hủy là trên 9,1 nghìn con. Các cấp, các ngành tập trung hướng dẫn người dân thực hiện các biện pháp vệ sinh khử trùng, tiêu độc khu vực chuồng nuôi và các khu lân cận. Đến thời điểm hiện tại các ổ dịch đã được kiểm soát, không xuất hiện các trường hợp nhiễm mới.

Sản lượng thịt hơi xuất chuồng trong 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt gần 31,8 nghìn tấn, tăng 3,5 nghìn tấn (+ 12,2%) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: thịt lợn hơi xuất chuồng đạt 21,1 nghìn tấn, tăng 2,7 nghìn tấn (+ 14,5%); sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng đạt 7,6 nghìn tấn, tăng 0,7 nghìn tấn (+ 11,0%). Sản lượng trứng đạt 82 triệu quả tăng 9,9%.

3.2. Lâm nghiệp

Ước tính diện tích rừng trồng mới tập trung 6 tháng đầu năm 2022 đạt 83 ha, giảm 45 ha (- 35,2%); sản lượng gỗ khai thác ước đạt 11,1 nghìn m3, giảm 1,4 nghìn m3 (- 11,5%); sản lượng củi ước đạt 12,8 nghìn ste, giảm 2,4 nghìn ste            (- 16,0%). Số cây trồng phân tán trong 6 tháng đầu năm ước đạt 439,6 nghìn cây, tăng 33,6 nghìn cây (+ 8,3%) so với cùng kỳ năm trước.

Trong 6 tháng đầu năm, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 01 vụ cháy rừng tại xã Quang Sơn, thành phố Tam Điệp với diện tích khoảng 0,061 ha.

3.3. Thuỷ sản

Sản xuất thủy sản 6 tháng đầu năm 2022 phát triển thuận lợi, không có dịch bệnh xảy ra. Sản lượng thuỷ sản 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 31,8 nghìn tấn, tăng 1,6 nghìn tấn (+ 5,4%) và đạt 48,5% kế hoạch năm 2022; trong đó, sản lượng cá ước đạt 17,1 nghìn tấn, tăng 0,3 nghìn tấn (+ 2,0%), tôm ước đạt 0,8 nghìn tấn, tăng 0,1 nghìn tấn (+ 7,3%), thủy sản khác ước đạt 13,9 nghìn tấn, tăng 1,2 nghìn tấn (+ 9,8%).

Sản lượng thủy sản nuôi trồng 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 28,5 nghìn tấn, tăng trên 1,6 nghìn tấn (+ 6,1%) so với cùng kỳ năm trước; sản lượng thuỷ sản khai thác đạt 3,3 nghìn tấn, giảm 0,01 nghìn tấn (- 0,4%) so với cùng kỳ năm trước. Sau khi tình hình dịch Covid-19 được kiểm soát, các hoạt động kinh tế trở lại bình thường, thị trường tiêu thụ các sản phẩm thủy sản được thông suốt và thuận lợi hơn.

3.4. Công tác xây dựng nông thôn mới

Đến hết tháng 6 năm 2022, tỉnh Ninh Bình đã có 117/119 xã đạt chuẩn nông thôn mới (chiếm 98,3%); trong đó có 17 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, 11 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; 7 huyện, thành phố có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có 6 huyện, thành phố (huyện Hoa Lư, huyện Yên Khánh, huyện Gia Viễn, huyện Yên Mô; thành phố Tam Điệp, thành phố Ninh Bình) được Thủ tướng Chính phủ công nhận đạt chuẩn và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; huyện Nho Quan đã trình Thủ tướng Chính phủ xem xét công nhận đạt chuẩn nông thôn mới.

Hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn được quan tâm đầu tư cơ bản đồng bộ, đặc biệt là đường giao thông nông thôn. Trong 6 tháng đầu năm 2022 các địa phương đã tiếp nhận 573 tấn xi măng làm được 10 tuyến đường giao thông nông thôn với chiều dài 3,5 km. Lũy kế đến nay, toàn tỉnh đã cấp 267.358 tấn xi măng, làm được 16.804 tuyến đường giao thông nông thôn với tổng chiều dài hơn 2.123,2 km.

4. Sản xuất công nghiệp

Sản xuất công nghiệp của tỉnh gặp khó khăn khi những tháng đầu năm dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, xuất hiện nhiều ổ dịch tại các khu, cụm công nghiệp dẫn đến tình trạng thiếu hụt nguồn lao động cho sản xuất; bên cạnh đó, xung đột quân sự giữa Nga và U-crai-na tác động đến chuỗi cung ứng nguyên vật liệu toàn cầu, khó khăn trong nhập nguyên liệu đầu vào cũng như thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra buộc các doanh nghiệp phải cắt giảm thời gian sản xuất. Do vậy, sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm vẫn duy trì mức tăng so với cùng kỳ, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng không cao.

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) toàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2022 tăng 1,08% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khai khoáng gim 7,37%; công nghip chế biến, chế tạo tăng 1,66%; sn xut và phân phối đin gim 12,84%; cung cp nước, hođộng qun lý và x lý rác thi, nước thi tăng 0,03%.

Giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh (tính theo giá so sánh 2010) 6 tháng đầu năm năm nay ướđạt 47.979,4 t đồng, tăng 4,0% so vi cùng kỳ năm trước, đạt 43,9% kế hoch năm. Trong đó: ngành khai khoáng ước đạt 278,2 t đồng, gim 7,5%; công nghip chế biến, chế tạo đạt 47.138,5 t đồng, tăng 4,2%; sn xut và phân phđiđạt 484,6 t đồng, gim 5,8%; cung cp nước và hođộng qun lý, x lý rác thi, nước thải đạt 78,1 t đồng, gim 0,7%.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có mc tăng khá trong 6 tháng đầu năm như: dđóng hp 8,1 nghìn tn, tăng 81,9%; nước da tươi 2,9 triu lít, tăng 91,1%; quáo các loi 50,7 triu cái, tăng 23,3%; giày, dép các loi 24,5 triđôi, tăng 10,8%; phân lân nung chy 84,6 nghìn tn, tăng 28,8%; kính ni 201,5 nghìn tn, tăng 5,1%; modul camera 179,1 triu cái, tăng 57,0%; xe ô tô ch hàng hóa 4,9 nghìn chiếc, tăng 26,8%; đồ chơi hình con vt 10,0 triu con, tăng 33,5%;...

Tuy nhiên, mt s sn phm có mc sn xut gim sút làđá các loi 1,6 triu m3, gim 6,8%; thăn cho gia súc 11,7 nghìn tn, gim 16,1%; phân Ure 197,1 nghìn tn, gim 17,2%; phân NPK 53,2 nghìn tn, gim 19,0%; xi măng 3,9 triu tn, gim 1,5%; clanke 1,4 triu tn, gim 5,8%; linh kiđin t 62,5 triu cái, gim 7,4%; tai nghe đin thoi di động 1,8 triu cái, gim 38,7%; kính mánh 692,1 nghìn cái, gim 43,7%; xe ô tô t 5 ch ngi tr lên 21,8 nghìn chiếc, gim 35,8%; cn gt nướô tô 5,5 triu cái, gim 13,5%; ...

5. Vđầu tư và phát trin

Tổng vđầu tư phát trin 6 tháng đầu năm 2022 toàn tnh ước thc hin 14.871,0 t đồng, tăng 13,5% so vi cùng k năm trước và đạt 55,1% kế hoch năm. Trong đó: vn ngân sách Nhà nướđạt 2.530,5 t đồng, tăng 18,0%; vn ngoài Nhà nướđạt 9.741,8 t đồng, gim 4,0%; vđầu tư trc tiếp nước ngoàđạt 2.598,7 t đồng, gp gần 3,2 ln.

Mt s d án, công trình có khi lượng vđầu tư thc hin ln trong 6 tháng đầu năm nay là: D áđầu tư xây dng Nhà máy HTMT s 2 phc v lp ráp, sn xuô tô ca Công ty C phn Sn xuô tô Hyundai Thành Công Vit Nam ướđạt 2.001,1 t đồng; d án xây dng văn phòng ca Công ty C phn H tng dch v và H tng ô tô Thành Công ướđạt 183,5 t đồng; d án xâdng nhà máy ca Công ty TNHH Dream Plastic Kim Sơướđạt 159,7 t đồng;...

6. Thương mi, dịch vụ

Trước tình hình dịch Covid-19 được kiểm soát tốt, các hoạt động dịch vụ, du lịch trên địa bàn tỉnh dần quay trở lại hoạt động bình thường, cùng với đó sau thời gian dài chịu ảnh hưởng bởi dịch, nhu cầu tiêu dùng, vui chơi, giải trí, du lịch, đi lại của người dân tăng cao đã tạo điều kiện cho ngành thương mại và dịch vụ của tỉnh tiếp đà phục hồi và đạt được mức tăng trưởng khá.

6.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ

Trong 6 tháng đầu năm 2022, doanh thu bán lẻ hàng hóa toàn tỉnh ước thực trên 19.152,2 tỷ đồng, tăng 13,1% so với 6 tháng năm 2021; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt gần 2.603,6 tỷ đồng, tăng 7,1% so với cùng kỳ (trong đó: doanh thu lưu trú 179,8 tỷ đồng, tăng 1,0%; doanh thu dịch vụ ăn uống 2.423,8 ỷ đồng, tăng 7,6%); doanh thu dịch vụ lữ hành ước đạt gần 1,1 tỷ đồng, giảm 69,6%; doanh thu một số ngành dịch vụ khác gần 1.531,8 tỷ đồng, tăng 6,6%.

6.2. Chỉ số giá tiêu dùng

Giá xăng du, giá gas tăng theo giá nhiên liu thế gii, giá nhà  thuê tăng tr li sau khi dch Covid-19 được kim soát, giá thịt gia cầm tăng là nguyên nhân chính làm ch s giá tiêu dùng (CPI) trên địa bàn tỉnh trong tháng 6/2022 tăng 0,74% so vi tháng trước, tăng 3,49% so vi tháng 12/2021 và tăng 3,14% so vi cùng k năm 2021. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, CPI tăng 2,11% so vi cùng k năm trước: Có đến 8/11 nhóm hàng hóa và dch v có ch s giá tăng, gm: nhóm giao thông tăng mạnh nhất với mức tăng 16,68%; nhóm nhà đin nước, chđốt và VLXD tăng 5,48%; nhóm giáo dc tăng 2,15%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,19%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,67%; nhóm đồ ung và thuc lá tăng 0,63%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,42%; nhóm hàng hóa và dch v khác tăng 0,4%. Ba nhóm còn li có ch s gim: nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 1,09%; nhóm hàng ăn và dch v ăn ung gim 0,97% (lương thc tăng 1,63%; thc phm gim 1,75%; ăn ung ngoài gia đình tăng 0,06%); nhóm bưu chính vin thông gim 0,23%.

Chỉ số giá vàng và chỉ số Đô la Mỹ: Bình quân 6 tháng đầu năm, chỉ số giá vàng tăng 1,43%, chỉ số Đô la Mỹ tăng 2,38% so với cùng kỳ năm 2021.

6.3. Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Tổng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt gần 3.389,6 triệu USD, tăng 28,3% so với cùng kỳ, đạt 57,4% kế hoạch năm.

Xuất khẩu: tổng giá trị xuất khẩu 6 tháng ước đạt gần 1.614,4 triệu USD, tăng 27,3% so với cùng kỳ năm trước và đạt 57,7% kế hoạch năm. Một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn là: quần áo các loại đạt 198,4 triệu USD; xi măng, clanke đạt 250,3 triệu USD; giầy dép các loại đạt 415,7 triệu USD; camera và linh kiện 511,5 triệu USD; linh kiện điện tử 54,9 triệu USD...

Nhập khẩu: tổng giá trị nhập khẩu 6 tháng đầu năm ước đạt gần 1.775,2 triệu USD, tăng 29,2% so với 6 tháng năm 2021, đạt 57,3% kế hoạch năm. Trong đó, giá trị các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là: linh kiện điện tử 583,6 triệu USD; linh kiện, phụ tùng ô tô các loại 540,6 triệu USD; phụ liệu sản xuất giày dép 343,8 triệu USD; vải may mặc 90,8 triệu USD.

6.4. Vận tải hành khách và hàng hóa

        Hoạt động vận tải trên địa bàn tỉnh trong 6 tháng đầu năm nay có sự phục hồi đáng kể sau đại dịch Covid-19, đặc biệt là vận tải hành khách bằng đường thủy do chủ yếu phục vụ khách du lịch nên đạt tốc độ tăng cao khi du lịch được hoạt động bình thường trở lại, góp phần vào mức tăng trưởng chung của toàn ngành vận tải.

        Vận tải hành khách: Trong 6 tháng đầu năm 2022, các đơn vị vận tải hành khách trong tỉnh đã thực hiện trên 11,0 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 16,8% so với 6 tháng 2021 và luân chuyển trên 574,1 triệu lượt khách.km, tăng 11,7%.

Vận tải hàng hóa: Ước tính 6 tháng 2022, khối lượng hàng hoá vận chuyển toàn tỉnh đạt gần 30,4 triệu tấn, tăng 14,3% so với cùng kỳ và luân chuyển 4.281,2 triệu tấn.km, tăng 14,9%.

Doanh thu vận tải: Doanh thu vận tải toàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt trên 3.908,1 tỷ đồng, tăng 18,5% so với cùng kỳ năm 2021.

6.5. Hoạt động du lịch

Sau thời gian dài phải tạm ngừng đón khách do ảnh hưởng của dịch Covid -19, các khu, điểm du lịch trên địa bàn tỉnh đã được mở cửa đón khách du lịch ngoại tỉnh từ ngày 01/02/2022 và khách quốc tế từ ngày 15/3/2022, mở ra cơ hội cho ngành du lịch của tỉnh từng bước phục hồi và phát triển trong bối cảnh bình thường mới. Số lượng khách đến tham quan, du lịch tại các điểm du lịch trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm nay tăng cao so với cùng kỳ.

 Ước tính tổng số lượng khách đến các điểm thăm quan đạt trên 1.778,0 nghìn lượt, gấp trên 2,0 lần, đạt 71,1% kế hoạch năm. Chia ra: khách trong nước đạt 1.759,8 nghìn lượt, gấp gần 2,1 lần; khách quốc tế 18,2 nghìn lượt khách, tăng 39,3%. Doanh thu du lịch trong 6 tháng đầu năm nay ước đạt gần 1.054,4 tỷ đồng, tăng 88,7% so với cùng kỳ năm trước, đạt 59,7% kế hoạch.

7. Một số vấn đề xã hội

7.1. Đời sống dân cư

Trong 6 tháng năm nay, tình hình đời sống Nhân dân trên địa bàn tỉnh gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19, thêm vào đó giá xăng, dầu tăng cao cũng ảnh hưởng lớn đến sản xuất, kinh doanh và nhu cầu đi lại. Tuy nhiên với sự chỉ đạo sát sao của các cấp ủy Đảng, Chính quyền, bên cạnh đó các ngành, các địa phương đã chủ động, tập trung thực hiện các giải pháp, chương trình, đề án chính sách về lao động, giải quyết việc làm, trợ giúp xã hội, giảm nghèo... nhất là các giải pháp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, người lao động gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19, do đó đời sống Nhân dân trên địa bàn tỉnh vẫn giữ ổn định.

Trong 6 tháng đầu năm đã giải quyết việc làm cho 10.284 lao động, trong đó xuất khẩu lao động là 407 người; tổ chức đào tạo nghề cho 8.378 lao động, trong đó đào tạo dài hạn 2.765 người; tư vấn, giới thiệu việc làm cho 15.035 người.

Thực hiện Nghị quyết 68/NQ-CP ngày 01/7/2021, Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg, ngày 07/7/2021, Nghị quyết 126/NQ-CP ngày 08/10/2021 và Quyết định số 33/2021/QĐ-TTg ngày 06/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ về các chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19. Tính đến ngày 10/6/2022 toàn tỉnh đã hỗ trợ cho 28.277 đối tượng, với số tiền là 41,8 tỷ đồng.

Công tác an sinh xã hội, giảm nghèo luôn được quan tâm thực hiện, trong 6 tháng đã thực hiện hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho gần 539,0 nghìn đối tượng là hộ nghèo, cận nghèo, các đối tượng bảo trợ xã hội, người cao tuổi, trẻ em dưới 6 tuổi, học sinh, sinh viên và hộ nông, lâm, ngư nghiệp có mức sống trung bình; giải quyết cho 3.420 lượt đối tượng là hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ mới thoát nghèo được vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội để phát triển sản xuất, với tổng kinh phí là 207,3 tỷ đồng; giải quyết cho 7.200 hộ được vay vốn xây dựng nước sạch và vệ sinh môi trường với tổng kinh phí 140,5 tỷ đồng...

Trong dịp tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022, để mọi người, mọi nhà đều được vui Tết đón Xuân đầm ấm, các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư đã quan tâm động viên thăm hỏi, tặng quà cho các gia đình chính sách, hộ nghèo, cận nghèo, gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, các đối tượng bảo trợ xã hội...với tổng số kinh phí 59,7 tỷ đồng, tặng cho 159.415 đối tượng.

7.2. Giáo dục, đào tạo

Trong 6 tháng đầu năm 2022, để đảm bảo an toàn trường học trong tình hình dịch Covid-19, ngành Giáo dục Ninh Bình triển khai các giải pháp đồng bộ với tinh thần chủ động, linh hoạt thích ứng; triển khai kế hoạch dạy học linh hoạt, ứng phó với tình hình dịch Covid-19. Do đó đã đạt được nhiều kết quả như sau:

Tổ chức kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp quốc gia Trung học phổ thông (THPT) năm học 2021-2022, kết quả có 45/68 học sinh dự thi đạt giải (chiếm 66,2%), tăng 12 giải so với năm học trước; tổ chức kỳ thi học sinh giỏi  lớp 12 THPT cấp tỉnh theo tổ hợp môn, kết quả có 248/471 học sinh dự thi đạt giải (chiếm 52,7%); tổ chức cuộc thi Olympic “Tài năng Tiếng Anh” dành cho học sinh trung học và Olympic “Chinh phục IELTS”, kết quả: Có 117/193 thí sinh dự thi đạt giải; tổ chức kỳ thi tuyển sinh lớp 10 THPT năm học 2022-2023 đảm bảo an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế.

Tham dự Kỳ thi Olympic Toán học sinh viên và học sinh Việt Nam, đoàn tuyển Ninh Bình có 10 học sinh tham gia, kết quả: 8/10 học sinh đoạt giải (chiếm 80%); tham dự cuộc thi Khoa học kỹ thuật cấp quốc gia năm học 2021-2022 dành cho học sinh THPT, kết quả có 02 Dự án đạt giải Ba;...

Ngoài ra, tham gia cuộc thi vẽ tranh Quốc tế Toyota chủ đề “Chiếc ô tô mơ ước” lần thứ 11, đạt 02 giải Nhì và 03 giải Khuyến khích; tham gia thi đấu môn Karatedo tại Đại hội thể dục thể thao tỉnh Ninh Bình, đạt 02 Huy chương Vàng, 01 Huy chương Bạc và 03 Huy chương Đồng; tổ chức Lễ vinh danh Quỹ Khuyến học, khuyến tài Đinh Bộ Lĩnh tỉnh Ninh Bình năm học 2020-2021 cho 119 em học sinh có thành tích cao trong học tập và các lĩnh vực như thể thao, văn học, nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật, công nghệ năm học 2020-2021….

Hiện ngành giáo dục đang tập trung chuẩn bị tốt các điều kiện cho kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia năm 2022. Toàn tỉnh có 10.575 thí sinh đăng ký dự thi, trong đó 10.086 thí sinh đang học lớp 12 và 489 thí sinh tự do.

7.3. Hoạt động Y tế

Những tháng đầu năm, trước sự bùng phát mạnh của dịch Covid-19, ngành Y tế đã bám sát chỉ đạo của Trung ương và của Tỉnh, chủ động triển khai các biện pháp thích ứng linh hoạt, an toàn, kiểm soát hiệu quả tình hình diễn biến dịch Covid-19. Bên cạnh đó, tiếp tục duy trì, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác khám chữa bệnh; bảo đảm an toàn, vệ sinh thực phẩm; phục vụ tốt công tác y tế cho Đại hội thể thao Đông Nam Á (SEA Games 31)…

Số liệu cộng dồn từ khi có dịch đến 15h00 ngày 26/6/2022, trên địa bàn tỉnh ghi nhận 103.240 trường hợp dương tính với SARS-CoV-2, đã điều trị khỏi và xuất viện 103.033 trường hợp, đang điều trị 72 trường hợp, chuyển Bệnh viện Nhiệt đới Trung ương 30 trường hợp, tử vong 105 trường hợp (trong đó có 03 ca của tỉnh khác); tổng số trường hợp được cách ly và giám sát là 326.494 trường hợp; tổng số ca đã lấy mẫu xét nghiệm 606.473 ca. Đã tiêm phòng cho đối tượng từ 18 tuổi trở lên tối thiểu 01 mũi: 664.559 người, tiêm đủ 2 mũi: 660.378 người, tiêm mũi bổ sung 226.730 người; tiêm mũi 3: 606.888 người; tiêm mũi 4: 70.713 người; tiêm cho nhóm đối tượng từ 12 đến dưới 18 tuổi mũi 1: 83.937 người; tiêm đủ 02 mũi: 79.612 người; tiêm mũi 3: 33.970 người; tiêm cho nhóm đối tượng từ 05 đến dưới 12 tuổi, mũi 1: 54.132 người; tiêm đủ 02 mũi: 5.643 người.

Công tác khám chữa bệnh luôn đ­ược quan tâm thực hiện: Tại các cơ sở y tế trên địa bàn toàn tỉnh trong 5 tháng đã khám bệnh cho 397,3 nghìn lượt bệnh nhân; điều trị nội trú cho 69 nghìn l­ượt bệnh nhân.

7.4. Hoạt động văn hóa, thể thao

Hoạt động Văn hóa - Thông tin diễn ra với nhiều nội dung và hình thức phong phú, thiết thực chào mừng kỷ niệm những ngày lễ lớn của đất nước và những sự kiện trọng đại của tỉnh, như: Kỷ niệm 200 năm Danh xưng Ninh Bình và 30 năm tái lập tỉnh; chào mừng Lễ hội Hoa Lư năm 2022; Đại hội thể thao Đông Nam Á lần thứ 31 (SEA Games 31);…

Trong 6 tháng, tiếp tục duy trì đào tạo, huấn luyện nâng cao thành tích cho vận động viên các tuyến tại Trung tâm huấn luyện thể dục thể thao bảo đảm công tác phòng chống dịch Covid-19. Bên cạnh đó, cử các đoàn vận động viên đi thi đấu các giải, đạt được 49 huy chương các loại, trong đó, đáng chú ý là thành tích thi đấu của các vận động viên tham dự Sea Games 31 đạt 09 huy chương, gồm: 03 HCV, 03 HCB, 03 HCĐ.

Đăng cai tổ chức thành công môn thi đấu Karate thuộc khuôn khổ Đại hội thể thao Đông Nam Á (SEA Games 31); tổ chức thành công giải Bóng chuyền Cúp Hoa Lư Bình Điền lần thứ XVI năm 2022.

Thể thao quần chúng: tổ chức thành công giải giao hữu Bóng đá chuyên nghiệp - Cúp Hoa Lư năm 2022; giải Cờ vua các trường mầm non thành phố Ninh Bình; giải Việt dã xã, phường, thị trấn tỉnh Ninh Bình lần thứ VI…

7.5. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội

Lực lượng Công an tỉnh chủ động nắm, kiểm soát tốt tình hình, chỉ đạo giải quyết những vấn đề nổi liên quan đến an ninh trật tự (ANTT), không để xảy ra đột xuất, bất ngờ. Huy động tối đa lực lượng, phương tiện, triển khai đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ thực hiện quyết liệt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm, bảo đảm ANTT trong những ngày Lễ, Tết, những sự kiện trọng đại của tỉnh như: Lễ hội Hoa Lư, Lễ kỷ niệm 200 năm Danh xưng Ninh Bình và 30 năm tái lập tỉnh; Đại hội thể thao Đông Nam Á …

Tính từ 15/12/2021 đến 15/6/2022 trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 49 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm chết 19 người và 46 người bị thương, so với cùng kỳ năm trước giảm 17 vụ, tăng 04 người chết, giảm 08 người bị thương; xảy ra 154 vụ phạm pháp hình sự, giảm 33 vụ; phát hiện 193 vụ buôn bán, vận chuyển, tàng trữ ma tuý với 238 đối tượng, tăng 21 vụ, giảm 04 đối tượng. Xảy ra 02 vụ cháy, gây thiệt hại 500 triệu đồng./.

 


[1] Thông cáo báo chí và Infographics về tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Bình 6 tháng đầu năm 2022 được đăng tải trên Website  của Cục Thống kê Ninh Bình (http://thongkeninhbinh.gov.vn).

[2] Số liệu về tốc độ tăng trưởng GRDP và cơ cấu kinh tế do TCTK tính toán và công bố kỳ 30/5/2022.

 




324785

6
24
324785